1. Có một điều thú vị là, nhánh mai nở sớm nhất trong vườn thơ nước ta thời trung đại lại là một nhành mai nở nuộn. Đó là nhành mai nở nơi đầu sân nhà, giữa buổi sớm giá lạnh cuối xuân khi trăm hoa đã rụng hết rồi trong bài thơ Cáo tật thị chúng :
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Ngô Tất Tố dịch thơ :
Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già tới rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai
Đây là bài kệ của thiền sư Mãn Giác. Mãn Giác thiền sư (1052-1096), họ Lý tên Trường, pháp hiệu Hoài Tín trưởng lão, khi mất được ban thụy Mãn Giác. Ông là con của Trung thư viên ngoại lang Lý Hoài Tố, “người đi sứ nhà Tống năm 1073” (Nguyễn Q. Thắng, Từ điển tác gia Việt Nam, NXB Văn hóa-TT, 1999, tr.612). Thiền sư “đến hai mươi lăm tuổi mới xuất gia và trở thành một thiền sư được ngưỡng vọng. Vua Lí Nhân Tông rất mến trọng ông… phong cho ông chức Nhập nội đạo tràng để có thể dự bàn việc triều chính” (Ngữ văn 10, tập 1, Nâng cao, Nxb Giáo dục, 2006, tr.164). Sáng tác còn để lại của thiên sư là bài Cáo tật thị chúng thuộc thể loại kệ (một trong những thể loại đặc thù của văn học Phật giáo) viết theo thể cổ phong. Bài kệ còn này được làm vào cuối năm 1096, ban đầu vốn không có tên (một trong những đặc trưng của thể loại kệ là không có nhan đề), được chép lại trong sách Thiền uyển tập anh, nhan đề do người đời sau (Lê Quý Đôn) đặt