Toàn bộ kiến thức tổng quan về thị trường chứng khoán dành cho người mới bắt đầu

Ngày đăng 27/09/2023
2283 Lượt xem

Tác giả

MỞ ĐẦU

Thị trường chứng khoán Việt Nam khai trương vào ngày 20/7/2000 và chính thức hoạt động từ ngày 28/7/2000 sau nhiều năm chuẩn bị. Cho đến nay, thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh huy động vốn trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường, bổ sung cho các kênh huy động vốn khác. Thị trường chứng khoán ngày càng được hoàn thiện phù hợp với thực tế phát triển kinh tế và nhu cầu kinh doanh của nhà đầu tư. Là một lực lượng quan trọng và đông đảo trên thị trường, các nhà đầu tư đã, đang và sẽ tham gia mạnh mẽ vào kinh doanh chứng khoán với nhiều mục đích khác nhau. Để tìm kiếm lợi nhuận và phân tán rủi ro, họ cần có những kiến thức cơ bản, chính xác và cập nhật về thị trường chứng khoán. Do đó, việc tìm hiểu những kiến thức cơ bản, những thuật ngữ về thị trường chứng khoán là một nhu cầu cấp thiết. 

Mặc dù hiện tại thị trường chứng khoán ở thế giới cũng như Việt Nam đang ở giai đoạn tạm trũng, tuy nhiên, đây lại là giai đoạn thích hợp nhất để chúng ta trang bị thêm kiến thức về chứng khoán, thị trường chứng khoán. Bài viết sẽ cung cấp những thông tin, kiến thức hữu ích thông qua sự nghiên cứu, tìm hiểu từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau kết hợp với vốn kiến thức của bản thân. Thêm vào đó, các kiến thức này cũng gắn với kiến thức hiện hành về chứng khoán, đặc biệt ở quy định của Luật chứng khoán Việt Nam. Từ đó, nâng cao chất lượng, đáp ứng hơn nhu cầu của nhiều đối tượng.

I.  Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán

1.1.    Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đến nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo nền kinh tế thị trường.

Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán sơ khai đã xuất hiện ngay từ thời trung cổ xa xưa. Vào khoảng giữa thế kỷ XV, tại những thành phố lớn ở các nước phương Tây, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau trong các quán cà phê, các câu lạc bộ để tiến hành các cuộc thương lượng về các loại hàng như: nông lâm sản, khoáng sản, ngoại hối và cả giá bất động sản. Vào thời kỳ đầu, các cuộc thương lượng chỉ bao gồm các nhóm nhỏ và được tiến hành phân tán thành nhiều địa điểm. Cho đến cuối thế kỷ XV, các khu chợ này đã trở thành một “thị trường” với số lượng người tham gia lớn hơn, thời gian gặp gỡ thường xuyên hơn và đặc biệt với những quy ước thống nhất mang tính nguyên tắc. 

Năm 1453, lần đầu tiên phiên chợ với quy mô lớn đã diễn ra tại lâu đài của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ), lâu đài có biểu tượng của ba ví da tượng trưng cho 3 nội dung hoạt động chủ yếu là: hàng hóa, ngoại tệ và chứng khoán động sản. Đến năm 1547, giao dịch chứng khoán được chuyển đến thị trấn Anvers (Bỉ), và từ kinh nghiệm của nó, giao dịch chứng khoán ở các nước khác như Pháp, Ý, Đức một số nước Bắc Âu và Mỹ bắt đầu hình thành và phát triển trong suốt thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Vào những năm 60 của thế kỷ XIX, đặc biệt từ những năm 90 (khi bắt đầu thành lập rất nhanh các công ty cổ phần) thì luân chuyển chứng khoán phát triển rộng rãi. Điều này có sự liên quan đến tốc độ tích lũy tư bản được tăng cường và sự gia tăng tín dụng nhà nước.

Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 – 1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các ngân hàng lớn thâp nhập ngày càng mạnh mẽ vào hoạt động của thị trường chứng khoán và tính độc lập của các Sở giao dịch ngày càng giảm thấp. Các ngân hàng lớn là những người tham gia chủ yếu nhất vào sự đầu cơ của Sở giao dịch. Họ cho những nhà đầu cơ ở Sở giao dịch vay tiền vào chứng khoán. Họ cũng tự mình mua bán chứng khoán để thu lợi nhuận. Hoạt động đầu cơ một cách tự phát trên thị trường chứng khoán đã gây ra những biến động thường xuyên về thị giá chứng khoán trên thị trường. Sau thế chiến thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi và phát triển mạnh. Nhưng rồi, cuộc “khủng hoảng tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ sau 2 năm, thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.

Đến nay, thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển như: Anh, Mỹ, Nhật, Đức, Pháp… Hơn 40 nước đang phát triển cũng đã thiết lập thị trường chứng khoán. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đâu khi chuyển sang cơ chế thị trường như Cộng hòa liên bang Nga; các nước Đông Âu, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hungari… cũng đã lần lượt xây dựng thị trường chứng khoán. Đến nay, các sàn giao dịch chứng khoán lớn xuất hiện trào lưu sáp nhập lại để tăng cường khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.

Hiện nay, tổng vốn hóa thị trường của thị trường chứng khoán toàn cầu đã tăng từ 2,5 nghìn tỷ USD vào năm 1980 lên 68,65 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2018 . Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, tổng vốn hóa thị trường của toàn bộ số cổ phiếu toàn cầu đã đạt mức xấp xỉ 70,75 nghìn tỷ đô la Mỹ .

Có 60 sàn giao dịch chứng khoán trên toàn thế giới. Trong số đó, có 16 sàn giao dịch có vốn hóa thị trường đạt mức 1 nghìn tỷ USD trở lên, chiếm tỷ lệ 87% vốn hóa thị trường toàn thế giới. Ngoài Sàn giao dịch chứng khoán Úc, 16 sàn giao dịch này đều nằm tại Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á . Một số thị trường chứng khoán lâu đời nhất và quan trọng nhất là thị trường chứng khoán New York (1792), Thị trường chứng khoán Tokyo (1878 – 6%), Thị trường chứng khoán London (1793 – 6%) , Thị trường chứng khoán Franfukt (1595), Thị trường chứng khoán Zurich (1876)… Các thị trường chứng khoán đã cung ứng phần lớn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn, góp phần tạo đà phát triển cho nền kinh tế các nước.

1.2.    Bản chất của thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng, xét về mặt bản chất thì:

  • Thị trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ, chuyển tư bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư bản chức năng. Đây là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.
  • Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm.
  • Thị trường chứng khoán là định chế tài trực tiếp: cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Qua kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn, nâng cao tiềm năng quản lý vốn.

Đặc điểm của thị trường chứng khoán là:

(i) Thị trường chứng khoán gắn với hình thức tài chính trực tiếp và

(ii) Thị trường chứng khoán gắn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thông qua giá cả hình thành theo quan hệ cung cầu, tự do tham gia và rút khỏi thị trường, công khai thông tin.

1.3.    Chức năng và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán

1.3.1.    Chức năng của thị trường chứng khoán

Có nhiều quan điểm về chức năng của thị trường chứng khoán theo nhiều tiêu thức và cách đánh giá khác nhau

a.    Công cụ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

Thị trường chứng khoán cho phép các công ty hay chính phủ có thể gọi vốn đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, tăng sản lượng thông qua việc phát hành các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Tại hầu hết các nước, ngoài kênh huy động vốn truyền thống qua các tổ chức tài chính, các đơn vị kinh tế và Nhà nước có thể huy động vốn trực tiếp bằng cách phát hành chứng khoán thông qua thị trường chứng khoán… Nguồn vốn huy động được đảm bảo sử dụng lâu dài, đơn vị kinh tế không phải lo lắng về thời gian hoàn trả như đi vay ngân hàng. Do đó, áp lực tâm lý năng nề của doanh nghiệp về chu kỳ trả lãi và vốn vay ngân hàng sẽ được giảm đi.

Thị trường chứng khoán còn là công cụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài bên cạnh những hình thức phổ biến như: liên danh, đầu tư theo hợp đồng… Thông qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài có thể quan sát, theo dõi và nhận định tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, các tổ chức kinh tế trong nước. Nên kinh tế thị trường càng phát triển thì xu hướng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán các phát triển. Điều này có được là do tính đa dạng, linh hoạt và chi phí thấp của thị trường chứng khoán so với việc huy động vốn gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian.

b.    Công cụ tăng tiết kiệm quốc gia

Nhìn chung, phương pháp tiết kiệm và quản lý tài sản của các nhà đầu tư có thể thực hiện bằng 2 cách: Đầu tư vào tài sản thực sự như bất động sản, đá quý, hoặc đầu tư vào tài sản chính như gửi ngân hàng, tiết kiệm, chứng khoán. Khi nền kinh tế phát triển và thu nhập quốc gia tăng, người dân có xu hướng thích đầu tư vào vào các tài sản chính hơn là các tài sản thực. Thị trường chứng khoán đưa đến cho công chúng những công cụ mới đa dạng, phong phú, phù hợp với từng loại đối tượng có suy nghĩ và tâm lý riêng. Với cả một hệ thống gốm hàng chục loại chứng khoán khác nhau của nhiều ngành kinh tế khác nhau, người tiết kiệm có thể tự mình lựa chọn hoặc thông qua những nhà tài chính chuyên môn để lựa chọn những hình thức thích hợp nhất. Nhờ vậy, vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào công cụ đầu tư. Vốn đầu tư càng sinh lời thi càng kích thích ý thức tiết kiệm trong công chúng.

Rõ ràng, thị trường chứng khoán là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế quốc dân.

c.    Chức năng thanh khoản cho các chứng khoán

Công việc thường xuyên và hằng ngày của thị trường chứng khoán là mua bán các chứng khoán đã phát hành giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân nào đó phải thay đổi những quyết định đầu tư trước đó. Việc mua đi bán lại các chứng khoán này không tạo thêm nguồn vốn mới cho chủ thể phát hành mà chỉ là sự thay đổi quyền sở hữu đối với chứng khoán. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, tính thanh khoản của các chứng khoán cao hay thấp lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Thủ tục và phí thực hiện; Thời hạn còn lại của chứng khoán; Yếu tố thị trường.

d.    Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế

Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá và biểu hiện giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế một cách nhạy bén, công khai, kịp thời thông qua giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán. Việc đánh giá này có thể tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, yếu tố tâm lý của người đầu tư, qua đó tạo ra môi trường cạnh tranh.

1.3.2.    Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán nhìn vào 3 mục tiêu lớn: hoạt động có hiệu quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, thị trường chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

a.    Nguyên tắc trung gian

Nguyên tắc trung gian đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thông qua trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc truyền thống, cơ bản của thị trường chứng khoán.

Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp, chuyên nghiệp; đảm bảo an toàn về chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của sàn giao dịch. Chính những công ty chứng khoán hoặc những nhà môi giới chứng khoán sẽ là cố vấn đắc lực giúp cho người đầu tư xét đoán được giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và dự đoán giá trị tương lai của nó, từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn.

Điều này thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán tập trung – tức là Sở giao dịch chứng khoán, khi mà mua bán chứng khoán phải thông qua các nhà môi giới. Trên thị trường sơ cấp, nguyên tắc này thể hiện qua việc chào bán chứng khoán dưới hình thức đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành.

b.    Nguyên tắc đấu giá:

Mục tiêu của thị trường chứng khoán là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy, không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có thể căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị trường. Vì vậy, thị trường chứng khoán được coi là thị trường mang tính tự do nhất trong các loại thị trường.

Căn cứ vào hình thức đấu giá, ở thị trường chứng khoán có 3 loại đấu giá:

  • Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau để thương lượng giá. Ví dụ: Thị trường chứng khoán New York, Tokyo, Frankfurt…
  • Đấu giá gián tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau, việc thương lượng giá cả được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại và vi tính nối mạng. Điển hình của loại đấu giá này thị trường chứng khoán London.
  • Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống vi tính nối mạng giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các công ty chứng khoán thành viên. Các lệnh mua bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện. 

Trên thị trường sơ cấp, nguyên tắc thực hiện dưới hình thức đấu thầu. Trên thị trường thứ cấp, nó thực hiện qua việc xác định tại Sở giao dịch.

c.    Nguyên tắc công khai thông tin

Để đảm bảo tính công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán, đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao dịch. Công khai thông tin về thị trường chứng khoán đòi hỏi thỏa mãn các yêu cầu sau:

-    Tính chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên thị trường chứng khoán.

-    Tính kịp thời: nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.

-    Tính dễ dàng: Nhà đầu tư phải dễ dàng tiếp cận với thông tin trên thị trường chứng khoán trên các phương tiện thông tin như: báo chí, phát thanh, các cơ quan thông tin, mạng lưới thông tin của sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán.

Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp lý, các quy chế, điều lệ của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của thị trường chứng khoán, tạo điều kiện ổn định và phát triển thị trường chứng khoán.

2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán

2.1. Căn cứ vào phương thức giao dịch: Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

2.1.1. Thị trường sơ cấp

Thị trường sơ cấp là thị trường cấp 1 hay thị trường phát hành, là giai đoạn khởi đầu của thị trường chứng khoán. Đây là nơi mua bán chứng khoán mới phát hành để tạo lập doanh nghiệp, tăng thêm vốn huy động cho doanh nghiệp, huy động vốn cho nhu cầu chi tiêu của chính phủ, qua đó, đưa nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Do đó, thị trường này thực chất là thị trường vô hình, là tập hợp của nhiều đợt phát hành riêng lẻ của nhiều tổ chức phát hành khác nhau.

Đặc điểm của thị trường sơ cấp là: Là nơi huy động vốn cho tổ chức phát hành, thực hiện chức năng huy động vốn của thị trường chứng khoán. Thường là các tổ chức lớn mới tham gia thị trường sơ cấp. Các tổ chức phát hành thường quy định các điều kiện phát hành với các quy định của Ủy ban chứng khoán quốc gia. Để đảm bảo thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho người đầu tư chứng khoán, cơ quan quản lý thị trường chứng khoán (Ủy ban chứng khoán quốc gia) thường có những quy định chặt chữ và kiểm soát nghiêm ngặt việc phát hành chứng khoán ra công chúng.

2.1.2. Thị trường thứ cấp

Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại chứng khoán đã được phát hành nhiều lần mua bán và giá cả khác nhau. Thu nhập từ việc mua bán chứng khoán này sẽ thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về các tổ chức phát hành. Chức năng của thị trường thứ cấp là: (i) Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá (cạnh tranh hoàn hảo) và (ii) Đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán có giá.

Có nhiều tiêu thức phân loại thị trường thứ cấp: Theo tính chất tổ chức của thị trường và theo loại hàng hóa giao dịch trên thị trường.

  • Theo tính chất tổ chức của thị trường: thị trường thứ cấp được chia thành hai loại là thị trường chứng khoán tập trung và thị trường chứng khoán phi tập trung. Thị trường chứng khoán tập trung, còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán, là trung tâm mua bán chứng khoán có tổ chức chặt chẽ, ở đó chỉ những chứng khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn niêm yết mới được mua bán. Thị trường chứng khoán phi tập trung là thị trường không có trung tâm giao dịch, việc mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua mạng lưới máy tính, điện thoại..
  • Theo loại hàng hóa giao dịch trên thị trường: thị trường thứ cấp bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán phái sinh…

Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chính là về nội dung, mục đích và tính chất thị trường. Ở thị trường sơ cấp, nguồn vốn tiết kiệm được thu hút vào công cuộc đầu tư phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, việc giao dịch không làm tăng quy mô đầu tư vốn, không thu hút được thêm các nguồn tài chính mới mà chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán. 

3. Các chủ thể của thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán được vận hành bởi sự tham gia của các chủ thể, và chính hành vi của các chủ thể này đã tạo ra hoạt động sôi động của thị trường chứng khoán, bao gồm các hành vi, quản lý, phát hành, đầu tư, giao dịch, kinh doanh chứng khoán. Dựa theo phương pháp phân tổ nhóm cụ thể tham gia thị trường chứng khoán, cho thấy các chủ thể chủ yếu của thị trường chứng khoán bao gồm: Chủ thể quản lý; Chủ thể phát hành chứng khoán; Chủ thể kinh doanh chứng khoán; Chủ thể đầu tư. Ngoài các chủ thể chính kể trên, tham gia thị trường chứng khoán còn có các tổ chức tài chính trung gian và phụ trợ như: Các Ngân hàng được chỉ định thanh toán; Các Tổ chức định mức tín nhiệm; Các Ngân hàng giám sát Quỹ đầu tư chứng khoán và Ngân hàng bảo quản.

3.1. Chủ thể quản lý thị trường chứng khoán

Chủ thể quản lý thị trường là cơ quan Nhà nước, có chức năng điều hành, quản lý, giám sát thị trường chứng khoán. Nghiên cứu lịch sử phát triển thị trường chứng khoán của các nước trên thế giới có hai hình thức tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đó là:

(i)    Hình thức tổ chức thứ nhất: Cơ quan quản lý chuyên trách, độc lập dưới sự chỉ đạo của Quốc hội hoặc Chính phủ, có tên gọi là Uỷ ban quản lý chứng khoán hoặc Văn phòng giám sát chứng khoán. Mô hình cơ quan quản lý chuyên trách, độc lập, có thể nâng cao được khả năng quản lý ở tầm vĩ mô, giám sát được việc tuân thủ pháp luật của các hoạt động trên thị trường (Các nước theo mô hình này là Mỹ, Đức, Pháp, Canađa, Oxtraylia, Philippine, Malaysia ... Và ở Việt Nam, chúng ta cũng xây dựng cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo mô hình này, đó là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996). 

(ii)    Hình thức tổ chức thứ hai: Mô hình quản lý kiêm nhiệm không có cơ cấu tổ chức bộ máy riêng mà do một số cơ quan Chính phủ có liên quan đảm nhiệm từng phần theo chức năng (như ở Anh, có Sở giao dịch chứng khoán London phối hợp cùng Bộ Thương mại và Ngân hàng Trung ương Anh để quản lý hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán...).

 Tuy nhiên việc lựa chọn mô hình cơ quan, quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán chuyên trách, độc lập hay kiêm nhiệm là phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước của mỗi quốc gia, các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể ở mỗi nước.

Trong điều kiện Việt Nam, vấn đề tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán là mới mẻ, hơn nữa chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Bởi vậy, việc xây dựng cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán độc lập, chuyên trách - Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là nhằm mục đích: “Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán và quản lý hoạt động chứng khoán ở Việt Nam” .

3.2. Chủ thể phát hành chứng khoán

Chủ thể phát hành chứng khoán là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng khoán cho người đầu tư. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các Quỹ đầu tư chứng khoán... Đối với từng loại chủ thể phát hành, tuỳ thuộc cơ cấu, tổ chức hoạt động và nhu cầu huy động vốn mà pháp luật có thể quy định họ được phép phát hành các loại chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, để được phát hành chứng khoán ra công chúng nhằm huy động vốn, các chủ thể phát hành phải đáp ứng các điều kiện nhất định như: Quy mô về vốn; tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh; trình độ cán bộ quản lý; hiệu quả sản xuất kinh doanh; tính khả thi của dự án... Ngoài ra, tuỳ thuộc vào từng đợt phát hành cụ thể, tổ chức phát hành phải đáp ứng một số các điều kiện khác như: bảo lãnh phát hành, các doanh nghiệp hoạt động công ích có thể được miễn trừ điều kiện về quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh... các điều kiện về giá cho chứng khoán phát hành lần đầu ra công chúng.
3.3. Chủ thể kinh doanh chứng khoán

Hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác là nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ việc mua, bán chứng khoán. Các hình thức kinh doanh chứng khoán bao gồm: Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán. Đây là một quá trình hỗ trợ, điều tiết việc chu chuyển vốn. Việc kinh doanh chứng khoán là hoạt động của các tổ chức trung gian làm cho việc mua bán chứng khoán đã phát hành được diễn ra một cách thuận lợi và nhanh chóng hơn. Chủ thể kinh doanh là các công ty chứng khoán, Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ, các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập các công ty chứng khoán độc lập, các công ty con do Ngân hàng thành lập phải là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có đủ điều kiện để được kinh doanh chứng khoán. Các Ngân hàng còn tham gia vào hoạt động quản lý giám sát hoạt động của Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
3.4. Chủ thể đầu tư chứng khoán.  

Chủ thể đầu tư chứng khoán là những người có vốn tiết kiệm hoặc vốn tạm thời nhàn rỗi có nhu cầu đầu tư kinh doanh để kiếm lời bằng cách mua các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Đây là những chủ thể quan trọng mà nếu thiếu họ, thì thị trường chứng khoán sẽ không hoạt động được hoặc hoạt động không hiệu quả. Các chủ thể này có thể là cá nhân, tổ chức, các đoàn thể... chia thành hai nhóm:

Một là, Nhóm nhà đầu tư cá nhân. Họ là người có tiền tiết kiệm muốn đầu tư để sinh lời (có thể là khoản lợi tức cố định hàng năm hoặc có thể là khoản chênh lệch giữa giá mua và bán chứng khoán). Nhà đầu tư cá nhân có thể tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán bằng hai cách: (i) Đầu tư trực tiếp bằng việc đưa vốn của mình cho những tổ chức môi giới trung gian mua bán chứng khoán cho mình; và (ii) Đầu tư gián tiếp bằng việc mua chứng chỉ của các Quỹ đầu tư để hưởng lợi từ hoạt động đầu tư của Quỹ. 

Hai là, Nhóm nhà đầu tư có tổ chức. Nhóm này có thể bao gồm các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và các quỹ bảo hiểm xã hội khác, các doanh nghiệp... thông thường, họ đầu tư vào chứng khoán dài hạn để có thể chủ động lập kế hoạch đầu tư theo dòng ngân lưu thu chi của họ. Vì đầu tư vào chứng khoán là hoạt động kinh doanh có rủi ro cao, nên để khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức tham gia đầu tư vào chứng khoán, pháp luật của các nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam đều có các quy định chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.


3. 5. Các tổ chức tài chính trung gian và phụ trợ. 

Ngoài các chủ thể chính tham gia thị trường chứng khoán kể trên, thì không thể không xét tới vai trò, vị trí của các trung gian tài chính. Đây là loại chủ thể quan trọng tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau của thị trường chứng khoán. Trung gian tài chính được hiểu là “một thể chế chuyên về việc đưa những người cho vay và những người đi vay gặp nhau” (1). Trung gian tài chính là nhân vật trung tâm của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung, bao gồm các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phi Ngân hàng.

Ngân hàng thương mại được thành lập và hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay. Hoạt động của Ngân hàng thương mại cho phép nó tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán với tư cách vừa là người tăng cung, vừa là người tăng cầu chứng khoán. Các Ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ tài chính nhiều hơn bất kỳ một trung gian tài hính nào khác, đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và thanh toán tín dụng của mọi loại chủ thể ... Tuỳ theo từng mô hình hệ thống ngân hàng, như hệ thống Ngân hàng đa năng, hệ thống Ngân hàng chuyên doanh mà các Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán một cách trực tiếp, toàn diện, hoặc tham gia gián tiếp trong từng lĩnh vực nhất định, cụ thể: các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng như: các hiệp hội, quỹ tiết kiệm, quỹ đầu tư cũng tham gia một cách tích cực vào thị trường chứng khoán…

Như vậy, do ưu thế đặc biệt về vốn và nghiệp vụ kinh doanh, các trung gian tài chính là chủ thể phổ biến trên thị trường chứng khoán. Tại các Sở giao dịch chứng khoán ở các nước, sự tham gia của các trung gian tài chính, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nhiều hoạt động của thị trường chứng khoán nếu như không có các Ngân hàng thì không thể thực hiện được như: hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, thanh toán bù trừ, lưu ký chứng khoán ...

Để hoạt động của thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, đạt hiệu quả, thì ngoài việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ khác, một điều kiện hết sức quan trọng đó là phải xác lập chế độ pháp lý, định ra khung pháp lý đầy đủ, an toàn cho thị trường chứng khoán hoạt động. Thêm vào đó, việc nắm và hiểu rõ về lịch sử, quá trình hình thành và tổng quan lý luận thị trường chứng khoán giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về thị trường, phần nào tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình đầu tư. Bởi, các giai đoạn kinh tế đều mang tính quy luật, tức lặp lại lịch sử. Bởi vậy, việc tìm hiểu về lý luận cũng sẽ là một đòi hỏi khách quan và cần thiết. 

Từ các vấn đề trên, mình muốn đưa ra các kiến thức lý luận có vẻ là lý thuyết, là khống thực tế đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, kiến thức lý luận này lại có vai trò quan trọng trong áp dụng và thực hiện trên thực tiễn. Hy vọng những kiến thức trên sẽ hữu dụng đối với bạn đọc. Chúc cho hành trình đầu tư sắp tới của mọi người thắng lợi.

P/s: Hiện nay thị trường đang ở giai đoạn trủng, thoạt nhìn có thể là khủng hoảng nhưng với mình đây là giai đoạn tốt để mình chuẩn bị kiến thức cho những con sóng sắp tới. Đồng thời, sẽ là cơ hội rất lớn cho những ai đang có khoản nhàn rỗi (tiền mặt) hiện tại, bởi lẻ đây gần như là giai đoạn mua mà ta có thể mua cổ phiếu tốt với giá tốt. 

a.    Nguyên tắc trung gian

Nguyên tắc trung gian đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thông qua trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc truyền thống, cơ bản của thị trường chứng khoán.

Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp, chuyên nghiệp; đảm bảo an toàn về chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của sàn giao dịch. Chính những công ty chứng khoán hoặc những nhà môi giới chứng khoán sẽ là cố vấn đắc lực giúp cho người đầu tư xét đoán được giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và dự đoán giá trị tương lai của nó, từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn.

Điều này thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán tập trung – tức là Sở giao dịch chứng khoán, khi mà mua bán chứng khoán phải thông qua các nhà môi giới. Trên thị trường sơ cấp, nguyên tắc này thể hiện qua việc chào bán chứng khoán dưới hình thức đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành.

b.    Nguyên tắc đấu giá:

Mục tiêu của thị trường chứng khoán là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy, không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có thể căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị trường. Vì vậy, thị trường chứng khoán được coi là thị trường mang tính tự do nhất trong các loại thị trường.

Căn cứ vào hình thức đấu giá, ở thị trường chứng khoán có 3 loại đấu giá:

  • Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau để thương lượng giá. Ví dụ: Thị trường chứng khoán New York, Tokyo, Frankfurt…
  • Đấu giá gián tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau, việc thương lượng giá cả được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại và vi tính nối mạng. Điển hình của loại đấu giá này thị trường chứng khoán London.
  • Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống vi tính nối mạng giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các công ty chứng khoán thành viên. Các lệnh mua bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện. 

Trên thị trường sơ cấp, nguyên tắc thực hiện dưới hình thức đấu thầu. Trên thị trường thứ cấp, nó thực hiện qua việc xác định tại Sở giao dịch.

c.    Nguyên tắc công khai thông tin

Để đảm bảo tính công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán, đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao dịch. Công khai thông tin về thị trường chứng khoán đòi hỏi thỏa mãn các yêu cầu sau:

  • Tính chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên thị trường chứng khoán.
  • Tính kịp thời: nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
  • Tính dễ dàng: Nhà đầu tư phải dễ dàng tiếp cận với thông tin trên thị trường chứng khoán trên các phương tiện thông tin như: báo chí, phát thanh, các cơ quan thông tin, mạng lưới thông tin của sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán.

Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp lý, các quy chế, điều lệ của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của thị trường chứng khoán, tạo điều kiện ổn định và phát triển thị trường chứng khoán.

c.    Chức năng thanh khoản cho các chứng khoán

Công việc thường xuyên và hằng ngày của thị trường chứng khoán là mua bán các chứng khoán đã phát hành giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân nào đó phải thay đổi những quyết định đầu tư trước đó. Việc mua đi bán lại các chứng khoán này không tạo thêm nguồn vốn mới cho chủ thể phát hành mà chỉ là sự thay đổi quyền sở hữu đối với chứng khoán. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, tính thanh khoản của các chứng khoán cao hay thấp lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Thủ tục và phí thực hiện; Thời hạn còn lại của chứng khoán; Yếu tố thị trường.

d.    Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế 

Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá và biểu hiện giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế một cách nhạy bén, công khai, kịp thời thông qua giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán. Việc đánh giá này có thể tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, yếu tố tâm lý của người đầu tư, qua đó tạo ra môi trường cạnh tranh.


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem