Tìm hiểu về quỹ đầu tư tài chính và nghiệp vụ quỹ đầu tư

Ngày đăng 06/10/2023
247 Lượt xem

Tác giả

Đầu tư vào quỹ là một hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khái niệm quỹ đầu tư tài chính chỉ xuất hiện trên truyền thông trong những năm gần đây, vì thế vẫn còn khá mới mẻ. Do đó, việc tìm hiểu về Quỹ đầu tư tài chính là nhu cầu cần thiết đối với các nhà đầu tư cũng như các nhà nghiên cứu về thị trường tài chính. 

Vì thế, bài chia sẽ hôm nay sẽ đưa đến các khái niệm, kiến thức xoay quanh về quỹ đầu tư. Từ đó, mọi người có thể phần nào hiểu và nắm rõ được, có kiến thức tổng lược về các quỹ đầu tư tài chính để có thể lựa chọn công ty quản lý đầu tư phù hợp với tiêu chí của bản thân.

I.   KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA QUỸ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH

1.   Khái niệm quỹ đầu tư

Các quỹ đầu tư – còn được hiểu là các phương tiện đầu tư tập thể - là cơ cấu tài chính nhằm phân bổ và quản lý tiền của nhiều người đầu tư để mua chứng khoán được niêm yết hoặc cổ phần tư nhân trong các công ty cổ phần.

Quỹ đầu tư tập hợp các khoản đầu tư cá nhân thành một khoản tiền lớn và đầu tư vào danh mục đầu tư được xác lập theo chính sách của quỹ.

Người đầu tư qua quỹ có thể mua chứng khoán của các công ty mà nếu không có quỹ thì họ không thể mua được do chi phí giao dịch, các hạn chế về luật pháp và do thiếu kỹ năng chuyên môn. Họ có thể đa dạng hóa tài sản, đạt được tính thanh khoản cao hơn và hưởng được các nguồn lợi của việc nghiên cứu và quản lý doanh nghiệp. Các quỹ đầu tư được chuyên môn hóa có thể đáp ứng được các hình thức lựa chọn khác nhau của người đầu tư về rủi ro và lợi nhuận.

Ví dụ: Các quỹ tương hỗ có độ rủi ro thấp sẽ mua cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán được quản lý tốt và có tính thanh khoản cao, nhưng quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động trong các nền kinh tế chuyển đổi có độ rủi ro cao và tính thanh khoản thấp.

2.    Vai trò quỹ đầu tư

Các quỹ đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp đã đóng vai trò chủ yếu trong việc thúc đẩy đầu tư chứng khoán, tuy ở mỗi nước khác nhau thì vai trò của chứng có khác nhau. Vai trò của quỹ đầu tư thường thể hiện ở những khía cạnh sau:

  • Góp phần huy động vốn cho phát triển nền kinh tế nói chung và vào sự phát triển của thị trường sơ cấp, chuyển số vốn này từ tiết kiệm vào đầu tư.
  • Góp phần ổn định thị trường thứ cấp thông qua hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp khoa học.
  • Tăng cường khả năng quản trị công ty
  • Thực hiện vai trò lãnh đạo trong quá trình quốc tế hóa thị trường vốn:

+ Các quỹ đầu tư quốc tế thúc đẩy sự phát triển của nhiều thị trường chứng khoán mới nổi thông qua việc cải thiện tính thanh khoản và hỗ trợ cơ sở hạ tầng của thị trường để đáp ứng yêu cầu của các công ty quản lý quỹ quốc tế.

+ Các tổ chức đầu tư (quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm nhân thọ…) đã đóng vai trò chính trong sự phát triển của công nghệ quản lý quỹ đầu tư chuyên nghiệp.

+ Các quỹ đầu tư là công cụ chính của các tổ chức tài chính quốc tế: (i) Huy động các khoản vốn tư nhân lớn để đầu tư vào cổ phiếu ở các thị trường mới nổi; (ii) Thúc đẩy sự phát triển của các thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển; (iii) Cải thiện khả năng tiếp cận của các công ty vừa và nhỏ với tư vấn về quản lý và vốn cổ phần của nước ngoài.

Các công ty cần vốn cũng hưởng lợi nhiều từ các quỹ đầu tư. Sự hiện diện của các quỹ đầu tư sẽ giúp các công ty cải thiện được sự tiếp cận với các nguồn vốn bên ngoài công ty, dù là vốn cổ phần của tư nhân hoặc là của các công ty niêm yết chứng khoán. Ngoài ra, các quỹ đầu tư còn tư vấn cho các công ty về khả năng chuyên môn trong tiếp thị và lập kế hoạch tài chính. Như vậy, các quỹ đầu tư giúp huy động các nguồn tài chính trong nước và trung chuyển vốn một cách có hiệu quả.

Tại các nước mới nổi: các quỹ đầu tư có vai trò rất quan trọng. Tất cả các loại quỹ đều hoạt động ở các nước mới nổi, do các nước này nới lỏng các luật lệ đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tốc độ phát triển kinh tế nhanh, tỷ lệ lợi nhuận cao ở nhiều nước, việc đẩy mạnh tư nhân hóa…

Đối với các nhà đầu tư: các quỹ đầu tư làm lợi cho họ thông qua việc:

+ Đa dạng hóa danh mục đầu tư: với số tiền ít ỏi, người đầu tư có thể thu được lợi nhuận tối đa trong khi tối thiểu hóa rủi ro.

+ Công nghệ quản lý chuyên nghiệp: Số tiền đầu tư của người đầu tư được giao cho nhà quản lý chuyên nghiệp với khả năng quản lý khoa học và chi phí thấp hơn.

+ Tiết kiệm về chi phí quản lý và điều hành đối với quỹ mở: phần lớn người đầu tư không có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn để có thể phân tích thông tin và thị trường. Việc đầu tư qua quỹ đầu tư giúp người đầu tư có thể giảm chi phí giao dịch cố định (về thu nhập, phân tích… thông tin), cũng như chi phí biến đổi với khoản đầu tư không lớn. 

+ Dễ dàng rút vốn đầu tư và đôi khi có sự tham gia đặc quyền: phần lớn chứng khoán của các quỹ đầu tư có thể bán lại trên thị trường tập trung một cách dễ dàng, người đầu tư có thể di chuyển vốn của mình giữa các loại chứng khoán trong danh mục đầu tư mà quỹ đã lựa chọn.

+ Lựa chọn rộng rãi hơn: các nhà đầu tư có thể chọn những quỹ có mục tiêu phù hợp nhất với khả năng chịu rủi ro vào thời kỳ đầu tư của mình.

Đối với các công ty: các quỹ đầu tư giúp họ cải thiện việc tiếp cận đối với các nguồn vốn, tư vấn về quản lý, tiếp thị và tài chính, tạo nguồn thông tin tốt hơn, cũng như sự tiếp cận các nguồn vốn dài hạn dễ hơn.

Đối với các chính phủ: các quỹ đầu tư cũng mang lại nhiều lợi ích thông qua việc tăng nguồn vốn tiết kiệm trong nước, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn không cố định, đa dạng hóa sở hữu, các kỹ năng phát triển thị trường vốn trong nước tốt hơn, giá cổ phần cao hơn và nhờ đó thúc đẩy các công ty trong nước phát triển.

Chính vì vậy, kể từ khi quỹ đầu tư thiết lập vào cuối thế kỷ XIX cho đến nay, quỹ đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi thế giới.

II.    PHÂN LOẠI QUỸ ĐẦU TƯ

1.    Theo mục đích đầu tư

Sự đa dạng về ngành nghề, địa lý và cơ cấu quỹ rất lớn và ngày càng phát triển. Có thể có nhiều loại quỹ đầu tư theo các mục đích đầu tư như sau:

- Quỹ đầu tư theo danh mục (còn gọi là quỹ quốc gia) chủ yếu mua các chứng khoán niêm yết tại các Sở giao dịch chứng khoán của địa phương, hoặc cổ phiếu của các công ty thuộc các thị trường mới nổi niêm yết tại các trung tâm tiền tệ quốc tế, ví dụ như các giấy chứng nhận chứng khoán Mỹ (ADRs). Các quỹ này coi trong việc đa dạng hóa, tính khả mại và tính thanh khoản. Họ mua các cổ phần thiểu số trong các công ty và không tìm kiếm vai trò quản lý với số vốn ban đầu thông thường khoảng 50 – 200 triệu USD.

- Quỹ đầu tư cổ phiếu tư nhân (còn gọi là các quỹ đầu tư trực tiếp) mua các cổ phần tối thiểu quan trọng của các công ty chưa được niêm yết. Thông thường, quỹ đòi hỏi sự nỗ lực chung giữa ban quản lý quỹ (bao gồm kỹ năng quản lý chung và quản lý tài chính) và các nhà chuyên môn trong từng lĩnh vực cụ thể.

- Quỹ đầu tư mạo hiểm (VC) chủ yếu mua cổ phần tư nhân trong các công ty mới và nhỏ hơn, vốn hoạt động dao động từ 30 – 100 triệu USD. Các quỹ đầu tư VC mua cổ phiếu thiểu số quan trọng (đôi khi cả cổ phần đa số) của các công ty và thường cung cấp tư vấn về quản lý.

- Quỹ tương hỗ trong nước (còn gọi là quỹ tín thác) huy động vốn từ các nhà đầu tư trong nước và mua chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nước.

2.    Theo cơ cấu huy động vốn sau khi thành lập

2.1.    Quỹ đầu tư đóng

Quỹ đầu tư đóng hoạt động như công ty có phát hành chứng khoán ra công chúng. Chứng chỉ quỹ đầu tư được niêm yết và giao dịch trên thị trường cấp hai với giá tuân theo quy luật thị trường. Quỹ đầu tư này thường là không phát hành thêm chứng chỉ quỹ đầu tư, cũng không mua lại cổ phiếu đã phát hành của mình. Vì vậy, quỹ đầu tư đóng không tăng thêm vốn đầu tư, trừ khi phát hành thêm chứng chỉ quỹ đầu tư mới, người đầu tư cũng không thể rút vốn ra khỏi quỹ trừ khi quỹ mua lại chứng chỉ của mình.

NAV (Net Asset Value – Giá trị tài sản ròng) của quỹ đóng được tính trên cơ sở giá trị của chứng khoán nằm trong danh mục đầu tư của quỹ. Giá thị trường và NAV của quỹ đầu tư đóng hoàn toàn khác nhau, giá thị trường có thể thấp hơn NAV khoảng 15-20%.

Trong quỹ đầu tư đóng thường huy động vốn và nhóm cổ đông nhất định. Cổ phiếu của quỹ được mua bán ở mức giá cao hơn hoặc thấp hơn so với giá trị tài sản ròng của chúng. Các quỹ này có thể tồn tại vô hạn và hữu hạn, có thể được niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán quốc tế.

Hình thức điển hình nhất của các quỹ đầu tư đóng là một loạt các quỹ có thời gian tín thác nhất định và được tổ chức bởi một công ty quản lý. Các quỹ này được chia làm 02 loại:

+ Các quỹ tổ chức theo những kỳ hạn nhất định và duy trì chính sách đầu tư đã được xác định trước.

+ Các quỹ được tổ chức một cách không liên tục để phản ánh những thay đổi của điều kiện thị trường.

Tuy đều chịu sự quản lý của một công ty quản lý quỹ duy nhất song các quỹ được quản lý và lưu giữ một cách riêng biệt và độc lập với nhau. Lợi thế của loại quỹ này là những người đầu tư có thể chuyển từ một quỹ này sang quỹ khác với một chi phí chuyển đổi thấp hoặc là miễn phí.

2.2.    Quỹ đầu tư mở (còn gọi là quỹ hỗ tương)

 Trong quỹ đầu tư mở, công ty quản lý quỹ sẵn sàng mua lại các cổ phiếu với mức giá ngang bằng với giá trị tài sản ròng được công bố hàng ngày, thường là vào các thời điểm được thỏa thuận trước. Quỹ mở sẵn sàng bán chứng chỉ quỹ đầu tư với giá bằng NAV, có thể tính thêm phí bán và mua lại các chứng chỉ quỹ đầu tư với giá bằng NAV, có tính thêm phí mua lại. Vì vậy, số vốn của quỹ đầu tư không ngừng thay đổi. Người đầu tư có thể yêu cầu người quản lý mua lại chứng chỉ quỹ đầu tư của quỹ vào bất kỳ lúc nào trong khi quỹ vẫn liên tục phát hành chứng chỉ mới ra thị trường.

Một số quỹ mở có tính thêm phí bán. Giá bán của chứng chỉ quỹ đầu tư có tính phí bán bằng NAV cộng thêm tỷ lệ phần trăm phí bán, thường là 7.5% - 8.0% của NAV và thường không tính phí khi mua lại chứng chỉ quỹ đầu tư (tức là giá mua lại sẽ bằng NAV). Giá niêm yết của các quỹ đầu tư này gồm NAV và giá bán.

Các quỹ không tính phí bán là các quỹ có giá bán ra của chứng chỉ quỹ đầu tư bằng NAV, các quỹ này có thể tính phí mua lại thường khoảng 0,5%.

Ngoài các quỹ tính phí và các quỹ không tính phí còn có các quỹ tính phí thấp (thường là 3% cho phí bán). Đó thường là các quỹ trái phiếu, hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư do công ty quản lý quỹ phát hành.

Lợi ích đối với người đầu tư là họ có thể đầu tư vào quỹ theo một kế hoạch xác định trước mang tính tự nguyện. Trên cơ sở các kế hoạch này, các quỹ quản lý tiền đầu tư của người đầu tư theo một số lượng cố định từng tháng một. Người đầu tư đóng góp trực tiếp hoặc trích nộp tiền từ tiền lương của mình theo định kỳ vào quỹ và nhận được toàn bộ số vốn góp cả vốn và lãi sau một khoảng thời gian nhất định kể từ lần đóng góp đầu tiên để thực hiện ý định sẵn có của mình. Vì mang tính chất xã hội rộng lớn nên dạng quỹ này chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.

3.    Theo đối tượng đầu tư

3.1.    Quỹ đầu tư cổ phiếu

Quỹ đầu tư cổ phiếu là loại quỹ đầu tư sử dụng hầu hết tiền vốn của quỹ để đầu tư vào các loại cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu. Thường là các quỹ này được chia thành quỹ phát triển, quỹ thu nhập phát triển, quỹ thu nhập.

-    Quỹ phát triển: quỹ này đầu tư tích cực vào cổ phiếu và không có bất cứ sự hạn chế nào về số lượng, bao gồm cả cổ phiếu thường, cổ phiếu tăng trưởng, cố phiếu thượng hạng…

-    Quỹ thu nhập phát triển thường đầu tư không quá 60% hay 70% vốn của mình vào cổ phiếu nhằm đảm bảo sự ổn định về lợi nhuận và đạt được tăng trưởng dài hạn. Vì vậy, quỹ tạo dựng sự cân bằng trong đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu.

-    Quỹ thu nhập: quỹ thường hạn chế vốn đầu tư vào cổ phiếu nhỏ hơn 50% tổng số vốn của quỹ nhằm đảm bảo sự ổn định về lợi nhuận, vì vậy quỹ thường coi trọng đầu tư vào trái phiếu và trái phiếu chuyển đổi.

3.2.    Quỹ đầu tư trái phiếu

Quỹ đầu tư trái phiếu: là loại quỹ đầu tư duy nhất vào trái phiếu nhằm đạt được sự ổn định về thu nhập. Các quỹ thường phân loại theo sự tập trung đầu tư của quỹ:

-    Quỹ trái phiếu chính phủ thường là ổn định về thu nhập và an toàn cao qua việc đầu tư vào các loại trái phiếu chính phủ.

-    Quỹ thị trường tiền tệ: thường đầu tư vào các công cụ nợ ngắn hạn như hối phiếu, kỳ phiếu… mang tính chất an toàn, ngắn hạn và tính thanh khoản cao. Các quỹ này thường không tính phí và tăng trưởng tùy thuộc vào thái độ của người đầu tư đối với thị trường chứng khoán.

-    Quỹ trái phiếu trong nước và nước ngoài.

4.    Theo mức độ tự do trong quản lý

Quỹ đầu tư cố định: quỹ này không cho phép người quản lý được quyền thay đổi các chứng khoán trong danh mục đầu tư của quỹ, ngoại trừ trường hợp người phát hành chứng khoán chịu thay đổi tính chất hay quyền hạn pháp lý. Danh mục này được xác định ngay từ khi thành lập qũy và không thay đổi trong suốt thời gian tồn tại của quỹ. Bất lợi của quỹ là khả năng chịu đựng kém khi giá chứng khoán trong danh mục đầu tư của quỹ bị giảm. Thuận lợi của quỹ là người đầu tư có thể xác định được bản chất các chứng khoán nắm giữ trong danh mục đầu tư của quỹ.

Quỹ đầu tư linh hoạt: quỹ này cho phép người quản lý quỹ có thể thay đổi các chứng khoán trong danh mục đầu tư của quỹ theo tính toán của cá nhân để tránh tổn thất cho quỹ. Thuận lợi của quỹ là có được tự do nhất định trong quản lý quỹ, đạt tính chuyên môn cao cho các chuyên gia, cho phép họ kiểm soát các suy giảm trong giá trị tài sản thuần trên cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư và do đó hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

5.    Theo hình thức tổ chức

5.1.    Quỹ hoạt động dưới dạng công ty đầu tư

Công ty đầu tư huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và bán chúng cho người đầu tư – là cổ đông với tư cách là cổ đông thông thường. Cổ phiếu này có thể được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán hoặc thị trường phi tập trung. Cơ cấu tổ chức của công ty đầu tư về cơ bản giống như một công ty cổ phần: đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc và các thành phần khác. Loại quỹ này phải chịu sự chi phối của Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và thường hoạt động ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển.

5.2.    Quỹ đầu tư dưới dạng hợp đồng

Loại quỹ này (còn gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư) là một cơ chế hoạt động gồm công ty quản lý quỹ, người lưu giữ tài sản của quỹ và người đầu tư. Nó không phải là một pháp nhân mà hoàn toàn là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp hình thành.

Công ty quản lý quỹ: Công ty là người thành lập và quản lý quỹ bằng cách: (i) Đứng ra xin phép thành lập quỹ, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng để tạo vốn cho quỹ; (ii) Lựa chọn và thực hiện đầu tư vốn của quỹ vào chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với điều lệ của quỹ; (iii) Xác định lợi nhuận của quỹ và tư vấn cho người lưu giữ tài sản của quỹ về phân phối lợi nhuận… Công ty quản lý quỹ có thể tổ chức theo hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật. Một công ty quản lý quỹ được hưởng các khoản phí và thưởng theo quy định của điều lệ quỹ.

Người lưu giữ tài sản của quỹ là người bảo quản tài sản của quỹ, đồng thời thực hiện việc giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ đối với quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư.

Người đầu tư vào quỹ là tổ chức hoặc cá nhân góp vốn lập quỹ thông qua việc mua chứng chỉ quỹ đầu tư. Họ có quyền hưởng lợi từ hoạt động đầu tư của quỹ và yêu cầu công ty quản lý quỹ thực hiện đúng điều lệ của quỹ. Họ không được phép trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với các tài sản trong danh mục đầu tư của quỹ. Họ không có quyền quản lý, không được phép yêu cầu công ty quản lý, người lưu giữ tài sản trình sổ sách hoặc thư từ giao dịch, ngoại trừ tại đại hội những người đầu tư.

III.    PHƯƠNG THỨC THÀNH LẬP, QUẢN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ

Tùy theo mô hình quỹ đầu tư dạng công ty hoặc dạng hợp đồng mà cách thành lập quỹ đầu tư sẽ khác nhau. Hoạt động này phải tuân thủ các quy định của luật pháp như Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư… và phải đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán.

Với quỹ đầu tư dạng hợp đồng: Việc thành lập quỹ là do công ty quản lý quỹ thực hiện theo quy định. Công ty quản lý quỹ phải chấp hành các điều kiện để được cấp giấy phép quản lý quỹ đầu tư, thực hiện quy trình pháp lý để được cấp giấy phép quản lý quỹ, quản lý quỹ với những quyền và nhiệm vụ được quy định theo luật lệ. Trong hoạt động, công ty quản lý quỹ phải tuân thủ các hạn chế về hoạt động đối với công ty, có thể bị đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép quản lý quỹ. 

Với quỹ công chúng: Đây là quỹ có chứng chỉ quỹ được phát hành ra công chúng. Công ty quản lý quỹ tiến hành thực hiện việc phát hành chứng chỉ theo luật định. Trong thừi gian cơ quan quản lý Nhà nước xem xét hồ sơ xin phép phát hành quỹ, công ty quản lý quỹ, tổ chức bảo lãnh phát hành và các đối tượng có liên quan không được quảng cáo, chào mời và phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư dưới bất kỳ hình thức nào. Sau khi được cấp giấy phép phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, công ty quản lý quỹ phải công bố việc phát hành trên 1 tờ báo trung ương hoặc tờ báo địa phương nơi công ty đặt trụ sở chính với các nội dung chính quy định trong mẫu thông báo phát hành. Việc phát hành chứng chỉ quỹ phải tuân thủ các quy định của luật định.

Sau khi kết thúc đợt phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng, đại hội người đầu tư đầu tiên họp dưới sự triệu tập của công ty quản lý quý và ngân hàng giám stas, và sau đó 30 ngày (thời gian cụ thể là theo quy định ở mỗi nước), công ty quản lý quỹ lập hồ sơ xin phép thành lập quỹ công chúng gửi cho cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Qua thời gian quy định, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ quy định, cơ quan quản lý Nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký lập quỹ công chúng và niêm yết chứng chỉ quỹ.

Với quỹ thành viên: Công ty quản lý quỹ phải lập hồ sơ đăng ký lập quỹ thành viên theo luật định. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký lập quỹ thành viên, công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát phải lập và lưu giữ sổ đăng ký sở hữu phần đóng góp của thành viên góp vốn của quỹ thành viên và mọi thông tin liên quan đến việc chuyển nhượng vốn góp.

IV.    ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ

1.    Chi phí hoạt động của quỹ đầu tư

1.1.    Các chi phí liên quan đến việc phát hành ra công chúng lần đầu của quỹ

  • Chi phí tiếp thị
  • Chi phí In ấn bản cáo bạch
  • Chi phí trả cho các đại lý bán cổ phiếu/ chứng chỉ quỹ đầu tư.

Thông thường các chi phí trên ước trung bình khoảng 4-6% tổng số tiền huy động được từ nhà đầu tư. Chi phí chào bán lần đầu được khấu trừ từ tổng giá trị của quỹ huy động được.

1.2.    Chi phí liên quan tới hoạt động

Có ba lại chi phí cơ bản liên quan đến hoạt động của các quỹ sau khi thành lập và tiến hành hoạt động đầu tư. Đó là các loại phí:

  • Phí tư vấn đầu tư
  • Phí lưu giữ và bảo quản tài sản của quỹ
  • Lãi suất trong trường hợp quỹ phải vay ngắn hạn, thuế (nếu có)
  • Phí phải trả cho các tổ chức định giá các khoản đầu tư của quỹ.

Các chi phí trả cho các nhà môi giới chứng khoán thường không được tính vào chi phí hoạt động của quỹ mà được khấu trừ trực tiếp từ giá trị giao dịch mua hoặc bán với người môi giới và được phản ánh bằng mức độ giảm trực tiếp trong NAV của quỹ.

-    Phí quản lý quỹ: Đây là phí thông dụng đối với tất cả các danh mục đầu tư được các công ty tư vấn thanh toán cho các nhà phân tích chứng khoán và các chức năng quản lý danh mục đầu tư mà họ thực hiện.

Phí quản lý quỹ và thưởng (nếu có) trả cho công ty quản lý quỹ.

Tất cả các quỹ đầu tư đều tính và điều chỉnh phí quản lý hằng năm cộng thêm với phí bán để trả cho việc quản lý chuyên nghiệp quỹ đầu tư. Tỷ lệ phí dao động từ 0,25 -1% và được điều chỉnh theo lượng vốn quy định của quỹ. Phí quản lý chính là yếu tố khiến các công ty quản lý quỹ muốn tạo thêm nhiều quỹ. Khi tăng lượng tài sản quản lý, chi phí tăng nhưng phí quản lý không thể tăng lên tương ứng.

-    Các chi phí quản lý hành chính khác bao gồm:

+ Phí lập các báo cáo cho các cổ đông/người hưởng lợi

+ Phí duy trì quản lý tài khoản của người đầu tư

+ Phí kiểm toán

+ Phí trả cho những người điều hành quỹ

+ Phí cho các dịch vụ pháp lý

+ Phí liên quan đến các khoản vay của quỹ

+ Phí và lệ phí mà quỹ phải thanh toán theo quy định của luật pháp

+ Phí thay đổi các quy định của hợp đồng tín thác theo yêu cầu của cổ đông (nếu có)

+ Phí tổ chức đại hội cổ đông hoặc đại hội các nhà đầu tư của quỹ

+ Các chi phí khác theo quy định của điều lệ quỹ.

2.    Các thành tố về thu nhập của quỹ đầu tư

Thu nhập của quỹ đầu tư có được từ nhiều nguồn như: thu nhập từ lãi suất, thu nhập cổ tức, lãi trái phiếu, các khoản lãi hoặc lỗ khi bán các khoản đầu tư, giá trị thu được từ cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư được phát hành, lãi tiền gửi, các khoản thu nhập khác.

Việc phân phối thu nhập của quỹ phải tuân thủ các quy định sau:

  • Phần còn lại của thu nhập của quỹ sau khi trừ các chi phí của quỹ được phân phối cho người đầu tư theo nguyên tắc chỉ người đầu tư được ghi tên trong danh sách người đầu tư lập vào ngày đăng ký cuối cùng được quyền nhận thu nhập phân phối.
  • Quy trình và thủ tục phân phối thu nhập của quỹ cho người đầu tư được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ và thanh toán chứng khoán.

3.    Chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh của quỹ đầu tư

Khi đánh giá hoạt động của một quỹ, người ta thường dựa vào một số chỉ tiêu chính là tổng thu nhập mà quỹ mang lại cho các nhà đầu tư, tỷ lệ chi phí, tỷ lệ doanh thu, chất lượng công việc kinh doanh của người điều hành quỹ.

3.1.    Tổng thu nhập của quỹ

Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động của một quỹ, được cấu thành từ 3 khoản thu chính:

  • Phân phối thu nhập từ khoản thu nhập đầu tư ròng: Khoản thu nhập đầu tư bao gồm cổ tức và lãi suất thu được từ danh mục đầu tư của quỹ khấu trừ đi chi phí
  • Các khoản thu nhập ròng được thừa nhận là lãi vốn: các khoản thu nhập ròng được thừa nhạn là các khoản đầu tư đã quyết toán xong có lãi (hoặc bị lỗ)
  • Sự tăng (giảm) ròng trong giá trị tài sản ròng vì phản ánh giá trị các khoản đầu tư vào cổ phiếu mà quỹ đang nắm giữ. Ngoài ra nó cũng bao gồm các khoản thu nhập ròng được thừa nhận hoặc thu nhập ròng từ các khoản đầu tư chưa chia cho các nhà đầu tư.

Tổng thu nhập được xác định bằng công thức:

TR= (Phân phối thu nhập + Lãi vốn + Giá trị chênh lệch của NAV)/ NAV tại thời điểm đầu kỳ (1)

Đối với quỹ đóng, công thức trên chỉ phản ánh hiệu quả hoạt động của người quản lý quỹ do quỹ đóng có NAV xa rời giá của cổ phiếu/ chứng chỉ quỹ đầu tư, người đầu tư xác định tổng thu nhập của quỹ dựa trên các yếu tố phân phối thu nhập, lãi vốn và chênh lệch thị giá của cổ phiếu/chứng chỉ quỹ (thay vì công thức trên)

Công thức tính tổng thu nhập quỹ đóng dựa trên thị giá cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư:

TR= (Phân phối thu nhập + Lãi vốn + Chênh lệch giá)/ Giá ban đầu (2)

3.2.    Tỷ lệ chi phí

Tỷ lệ chi phí là một chỉ tiêu để đánh giá việc kiểm soát các chi phí liên quan đến hoạt động của một quỹ.

Tỷ lệ được xác định bằng chi phí hoạt động trong năm (các loại chi phí cho hoạt động đầu tư, hoạt động đầu tư, chi phí quản lý, chi phí hành chính) chia cho giá trị tài sản ròng trung bình của quỹ. Phí môi giới từ các giao dịch của quỹ không tính trong tỷ lệ chi phí này. Tùy theo danh mục đầu tư, tỷ lệ chi phí có thể dao động từ 0,5% đến trên 5%. Nói chung, tỷ lệ chi phí thấp hơn 1% đều được coi là thấp.

3.3.    Tỷ lệ thu nhập đầu tư

Tỷ lệ thu nhập được tính bằng giá trị thu nhập đầu tư ròng chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Tỷ lệ này tương tự như lợi tức cổ tức khi đánh giá hiệu quả đầu tư của cổ phiếu thông thường.

3.4.    Tỷ lệ doanh thu

Tỷ lệ này thể hiện tổng giá trị giao dịch (mua và bán) do công ty quản lý quỹ tiến hành đối với quỹ, được xác định bằng số lượng tài sản được bán hoặc mua chia cho giá trị tài sản ròng của quỹ trong năm.

3.5.    Chất lượng hoạt động của người quản lý quỹ

Chất lượng hoạt động của người quản lý quỹ phản ánh qua:

  • Điều khiển rủi ro của danh mục đầu tư
  • Kiểm soát chi phí giao dịch
  • Kinh nghiệm đầu tư và quá trình hoạt động của công ty quản lý quỹ
  • Học vấn và kinh nghiệm đầu tư của người điều hành quỹ
  • Thường là một nhóm người quản lý quỹ tốt hơn một hay hai cá nhân quản lý quỹ.

Hy vọng những kiến thức, thông tin mình chia sẽ trong bài viết này sẽ có giá trị và hữu ích trong chặng đường đầu tư của mọi người. Hy vọng mọi người tiếp tục đón đọc những bài viết trong chuỗi series về “Đầu tư chứng khoán” của mình. 

Cảm ơn tất cả những ai đọc bài mình đến đây! 

Have a nice day!


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem