TÀI LIỆU QUYỀN CỦA NGƯỜI KHIẾU NẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYỀN “RÚT KHIẾU NẠI” (LĨNH VỰC LUẬT KHIẾU NẠI TỐ CÁO)

Ngày đăng 30/12/2022
136 Lượt xem

Tác giả

PHÂN TÍCH CÁC QUYỀN CỦA NGƯỜI KHIẾU NẠI VÀ

 Ý NGHĨA CỦA QUYỀN “RÚT KHIẾU NẠI”

 

MỞ ĐẦU

Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, một quyền có tính chất chính trị và pháp lý của công dân, là một hình thức biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa, liên quan chặt chẽ và chiếm vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc thực hiện quyền khiếu nại sẽ là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Chính vì vậy trên cơ sở Hiến pháp, đã có nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước ta quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, đặc biệt là Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 2004 và 2005), Luật khiếu nại năm 2011.

NỘI DUNG

I. Một số vấn đề chung về khiếu nại

1. Khái niệm khiếu nại

Khiếu nại là hoạt động diễn ra khá thường xuyên và phổ biến, do đó cụm từ khiếu nại được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Khiếu nại theo gốc tiếng Latinh: "Complant" có nghĩa là sự phàn nàn, phản ứng, bất bình của người nào đó về vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình. 

Theo Đại Từ điển tiếng Việt, khiếu nại là thắc mắc, đề nghị xem xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm.

Như vậy, khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm sửa chữa một việc làm mà họ cho là không đúng, đã, đang hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ.

Theo quy định tại khoản Điều 2 của Luật khiếu nại 2011 thì “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”

Như vậy khiếu nại quy định trong Luật này được hiểu là khiếu nại hành chính, đó là khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước và quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; khái niệm này chỉ giới hạn đối với những khiếu nại phát sinh trong lĩnh vực quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước.

2. Chủ thể khiếu nại

Quy định nêu trên của Luật khiếu nại cho thấy, chủ thể của khiếu nại hay còn gọi là người khiếu nại bao gồm: công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức.

Quyền khiếu nại của công dân được ghi nhận tại văn bản pháp luật cao nhất là Hiến pháp. Cụ thể, tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.” Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này tiếp tục được ghi nhận tại khoản 1 Điều 30: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Như vậy, chủ thể khiếu nại được quy định bao gồm công dân Việt Nam và cả cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, cơ quan và tổ chức cũng có quyền khiếu nại. Theo quy định của Luật khiếu nại 2011, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. Việc quy định cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước, các cơ quan, tổ chức cũng bị tác động, bị ảnh hưởng bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Việc khiếu nại của cơ quan, tổ chức được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.

Cán bộ, công chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Quyết định kỷ luật được hiểu là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, các hình thức kỷ luật đối với cán bộ bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm. Đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, các hình thức kỷ luật bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, buộc thôi việc. Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, các hình thức kỷ luật bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc.

Các chủ thể nêu trên được thực hiện quyền khiếu nại với điều kiện họ là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, hay nói cách khác, quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại phải xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của người khiếu nại.

II. Quyền của người khiếu nại

Nhằm giúp người khiếu nại thực hiện tốt quyền khiếu nại và giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự tác động của các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật, Luật khiếu nại 2011 đã quy định khá cụ thể và chi tiết về các quyền của người khiếu nại.

1. Người khiếu nại có quyền tự mình khiếu nại, trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại, trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại. Đây là một trong những quyền rất quan trọng của người khiếu nại. Người khiếu nại có thể tự mình thực hiện quyền khiếu nại hoặc vì lý do nào đó ủy quyền cho người khác thực hiện quyền này. Theo quy định của Bộ luật dân sự: người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi; người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và phải do tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Nếu người khiếu nại thuộc các trường hợp này thì việc khiếu nại phải được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của họ. Người đại diện theo pháp luật trong trường hợp này bao gồm: (1) cha, mẹ đối với con chưa thành niên; (2) người giám hộ trong trường hợp người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu; người mất năng lực hành vi dân sự. Việc quy định người khiếu nại vì lý do khách quan khác có thể ủy quyền cho người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện quyền khiếu nại cho thấy phạm vi ủy quyền khiếu nại rất rộng.

2. Người khiếu nại có quyền nhờ luật sư tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một trong những quy định mới của Luật khiếu nại so với trước đây. Nếu như theo Luật khiếu nại, tố cáo trước đây, người khiếu nại chỉ có quyền “nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại thì nay ngoài quyền này họ còn được “ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Ngoài ra, để phù hợp với các quy định của Luật trợ giúp pháp lý, Luật khiếu nại quy định: Trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Những quy định mới này giúp cho người khiếu nại (vốn là bên yếu thế và ít hiểu biết về pháp luật hơn so với một bên là cơ quan nhà nước) bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

3. Người khiếu nại có quyền được tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại. Đây cũng là quy định mới so với Luật khiếu nại, tố cáo trước đây. Đây là quyền quan trọng của người khiếu nại, vì thông qua đối thoại người khiếu nại nhận thức đúng về các quy định của pháp luật liên quan đến nội dung khiếu nại, hướng giải quyết, qua đó kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Hiện nay, theo quy định tại các điều 30, 39, 53 Luật Khiếu nại 2011 và Điều 21 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP hướng dẫn về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính, việc đối thoại được tổ chức trong các trường hợp sau:

  • Trong quá trình giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, người giải quyết khiếu nại lần đầu tổ chức đối thoại nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung dung khiếu nại còn khác nhau. Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh tổ chức đối thoại.
  • Trong quá trình giải quyết khiếu nại áp dụng kỷ luật cán bộ công chức, người giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai phải tổ chức đối thoại.

Việc bắt buộc tổ chức đối thoại nhằm để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người khiếu nại, từ đó đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại chính xác kịp thời.

4. Quyền tiếp cận, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Quyền được tiếp cận, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại được quy định tại các điểm d, đ và g khoản 1 Điều 12 Luật Khiếu nại 2011 bao gồm các quyền:

- Được biết, đọc, sao chụp, sao chép, tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước

  • Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao nộp cho người giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước
  • Đưa ra chứng cứ về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về chứng cứ đó

Quyền được biết, đọc, sao chụp, sao chép tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại là quy định mới được đề cập trong Luật Khiếu nại 2011 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền của mình và giám sát quá trình giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, Luật Khiếu nại 2011 mới chỉ dừng lại ở việc người khiếu nại có quyền biết, đọc, sao chụp, sao chép tài liệu, chứng cứ nhưng chưa quy định về hình thức cung cấp, điều kiện, cách thức để người khiếu nại tiếp cận những tài liệu, chứng cứ này. Ngoài ra, người khiếu nại có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin đó cho mình. Tuy nhiên Luật Khiếu nại 2011 cũng chưa quy định chế tài xử lý đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, này nếu họ từ chối cung cấp. Do đó, Luật Khiếu nại 2011 cần bổ sung quy định về hình thức, cách thức tiếp cận chứng cứ của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Bên cạnh đó, cần quy định chế tài xử lý đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc không cung cấp đúng thời hạn đối với các chứng cứ liên quan đến vụ việc khiếu nại mà họ đang lưu giữ.

 5. Quyền rút khiếu nại

Rút khiếu nại là một trong những quyền quan trọng của người khiếu nại, được quy định tại Điều 10 và điểm 1 khoản 1 Điều 12 Luật Khiếu nại 2011. Theo đó, người khiếu nại có thể rút khiếu nại ở bất cứ thời điểm nào trong quá trình giải quyết khiếu nại; việc rút đơn khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn xin rút khiếu nại phải gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khi nhận được đơn xin rút khiếu nại thì đình chỉ việc giải quyết khiếu nại và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết. Đây là quy định thể hiện quyền tự định đoạt của người khiếu nại. Tuy nhiên, quyền rút khiếu nại chưa được quy định cụ thể và rõ ràng nên việc áp dụng có thể gặp phải một số vướng mắc:

Thứ nhất, Luật Khiếu nại 2011 chưa quy định rõ về điều kiện rút khiếu nại. Trong thực tiễn đã phát sinh trường hợp người khiếu nại rút đơn khiếu nại không xuất phát từ ý chí chủ quan của họ mà do họ bị cưỡng bức, ép buộc…

Thứ hai, khoản 8 Điều 11 Luật Khiếu nại quy định, người khiếu nại được quyền khiếu nại sau khi có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại trong thời hạn 30 ngày. Tuy nhiên trong trường hợp vụ việc bị đình chỉ giải quyết nhưng thời hiệu khiếu nại đã hết thì người khiếu nại đương nhiên mất quyền khiếu nại mà không phụ thuộc vào việc người khiếu nại có thực hiện việc khiếu nại lại trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có văn bản đình chỉ việc giải quyết khiếu nại.

6. Người khiếu nại có quyền được yêu cầu người giải quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hậu quả có thể xảy ra do việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại. Trong thực tiễn, có những quyết định hành chính đang trong quá trình bị khiếu nại, nếu thi hành ngay có thể sẽ gây hậu quả khó khắc phục. Ví dụ: quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở... Do vậy, Luật quy định người khiếu nại có quyền yêu cầu người giải quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp, đồng thời Điều 35 của Luật cũng quy định trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại trong trường hợp này phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ không vượt quá thời gian còn lại của thời hạn giải quyết. Quyết định tạm đình chỉ phải được gửi cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan và những người có trách nhiệm thi hành khác. Khi xét thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì phải hủy bỏ ngay quyết định tạm đình chỉ đó.

7. Người khiếu nại có quyền nhận văn bản trả lời về việc thụ lý giải quyết khiếu nại, nhận quyết định giải quyết khiếu nại. Quyền này của người khiếu nại liên quan đến trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại trong việc gửi văn bản thông báo về việc thụ lý giải quyết khiếu nại và gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại.

8. Người khiếu nại có quyền được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Đây là quyền rất quan trọng của người khiếu nại và đó cũng chính là mục đích của việc khiếu nại.

Mục đích cuối cùng người khiếu nại mong muốn đạt được khi thực hiện khiếu nại là khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Do đó, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có căn cứ pháp luật thì ngay lập tức phải có trách nhiệm khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại của người khiếu nại và phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

9. Người khiếu nại có quyền khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015.

Quyền khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính được quy định tại Điều 33 Luật Khiếu nại 2011. Theo đó, trong thời hạn do pháp luật quy định kể từ ngày hết thời hạn giải quyết mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý, thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai; hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định mà người khiếu nại không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

III. Ý nghĩa quyền “rút khiếu nại” của người khiếu nại trong khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Rút khiếu nại là một trong những quyền quan trọng của người khiếu nại và được quy định tại Điều 10, điểm 1 khoản 1 Điều 12 Luật Khiếu nại 2011. Theo Từ điển tiếng Việt, rút là “lấy trở về, thu trở lại cái đã đưa ra”[1]. Như vậy, rút khiếu nại là việc người khiếu nại thu lại, hủy bỏ yêu cầu khiếu nại mà họ đã đưa ra trước đó. Người khiếu nại có thể rút khiếu nại tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại; việc rút đơn khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn xin rút khiếu nại phải gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khi nhận được đơn xin rút khiếu nại thì đình chỉ việc giải quyết khiếu nại và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết.

Việc rút khiếu nại “thể hiện quyền quyết định và tự định đoạt của người khiếu nại”[2]. Đây được xem là quyền đương nhiên và không bị hạn chế của người khiếu nại (tất nhiên vẫn phải đảm bảo về điều kiện, thời hiệu và hình thức, thủ tục thực hiện). Do vậy, khi người khiếu nại thực hiện việc rút khiếu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện yêu cầu đó. Thậm chí, nếu cho rằng chủ thể chủ thể đang thụ lý vụ việc có thể không vô tư, khách quan hoặc hiệu quả giải quyết yêu cầu của người khiếu nại không cao, … người khiếu nại có thể rút lại khiếu nại để đề nghị Tòa án giải quyết theo con đường tố dụng. Bên cạnh đó, việc rút khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 được hiểu là rút toàn bộ yêu cầu của người khiếu nại thể hiện trong đơn khiếu nại như yêu cầu hủy bỏ, chấm dứt quyết định hành chính; hành vi hành chính; yêu cầu bồi thường thiệt hại… và hệ quả là phải đình chỉnh việc giải quyết khiếu nại[3]. Điều này hoàn toàn khác biệt so với việc rút yêu cầu của người khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật Tố tụng Hành chính năm 2015. Bởi lẽ, người khởi kiện vụ án hành chính được quyền rút một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện của mình[4]. Trong những trường hợp như vậy, tòa án sẽ có cách thức giải quyết khác nhau mà không đương nhiên đình chỉ giải quyết vụ việc như đối với việc giải quyết khiếu nại.

Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện để người đã rút khiếu nại và chủ thể có thẩm quyền quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại nhưng người khiếu nại tiếp tục yêu cầu xem xét lại vụ việc của mình, pháp luật khiếu nại quy định về việc khiếu nại lại tại khoản 8 Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011. Theo đó, nếu người khiếu nại mong muốn khiếu nại lại và đề nghị chủ thể có thẩm quyền tiếp tục giải quyết vụ việc của mình thì phải thực hiện điều đó trong thời gian 30 ngày kể từ ngày có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại. Sau thời gian trên, đương hiên họ sẽ mất quyền khiếu nại lại.

KẾT LUẬN

Khiếu nại và giải quyết khiếu nại góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước và ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại nói chung, những quy định về các quyền của người khiếu nại nói riêng đang ngày càng được hoàn thiện hơn. Quyền khiếu là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, một quyền có tính chất chính trị và pháp lý của công dân, là một hình thức biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa, liên quan chặt chẽ và chiếm vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;

2. Luật khiếu nại 2011;

3. Thanh tra Chính phủ, đề án 1-1133/QĐ-TTg về việc Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại (Tài liệu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn), Hà Nội, tháng 8 năm 2014;

4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010;

5. Võ Tấn Đào, Quyền của người khiếu nại theo Luật khiếu nại năm 2011, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 08 năm 2018 tr. 10.

 

 

 

[1] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh năm 2016, tr. 1061.

[2] Lê Việt Sơn – Võ Tấn Đào, Quyền của người khiếu nại theo Luật khiếu nại năm 2011, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 năm 2017 tr. 15.

[3]  Điều 10 Luật Khiếu nại năm 2011, Điều 19 Thông tư số 07/2013/TT- TTCP

[4]  Khoản 2 Điều 56 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem