TÀI LIỆU CƠ CHẾ BẢO VỆ NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM (TÀI LIỆU THAM KHẢO LĨNH VỰC LUẬT DÂN SỰ)

Ngày đăng 30/12/2022
177 Lượt xem

 

Tên đề tài:  CƠ CHẾ BẢO VỆ NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM (Lịch sử, nội dung và ý nghĩa).

 

Mục lục

 

  1. Dẫn nhập..................................................................................................................2
  2. Nội dung 
  1. Một số khái niệm cơ bản...........................................................................................2
  2. Lịch sử cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật Việt Nam........................................................................................................2
  3. Nội dung cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật Việt Nam........................................................................................................3
  4. Ý nghĩa cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật Việt Nam........................................................................................................6
  5. Thực tế cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu ở Việt Nam hiện nay.................................................................................................................6
  1. Kết luận và giải pháp............................................................................................7

 

 

 

Danh mục viết tắt

BLDS: Bộ luật Dân sự 2015

GDDS: Giao dịch dân sự

CQNN: Cơ quan nhà nước

NLPL: Năng lực pháp luật

NLHV: Năng lực hành vi

ĐS: Động sản

 

 

  1. Phần dẫn nhập

Cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu không phải là vấn đề mới nhưng có rất nhiều yếu tố cần phải bàn đến bởi nó liên quan đến quyền lợi của các bên khi tham gia giao dịch trong cuộc sống hàng ngày. Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, nội dung, ý nghĩa và một số vấn đề liên quan khác của cơ chế này là vô cùng cần thiết.

  1. Phần nội dung
  1. Một số khái niệm cơ bản.

GDDS là là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Đ116 BLDS).

GDDS vô hiệu là giao dịch không phát sinh hậu quả pháp lý mong muốn, và khi xác lập các bên hoặc chủ thể có hành vi pháp lý đơn phương đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định, dẫn tới không làm phát sinh bất kỳ một quyền, nghĩa vụ dân sự nào[1]

Người thứ 3 ngay tình khi tham gia GDDS vô hiệu được hiểu là người được chuyển giao tài sản thông qua GDDS mà không biết là tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu được từ một GDDS vô hiệu”[2]. Cần phải chú ý rằng, “người thứ ba” ở đây là người có liên quan chứ không phải là một bên trong GDDS vô hiệu. Khi họ tiếp nhận đối tượng, kết quả của của GDDS vô hiệu thông qua một giao dịch khác, khi đó pháp luật sẽ bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình.

  1.  Lịch sử:

Cơ chế bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong GDDS vô hiệu được quy định xuyên suốt ngay từ khi có bộ luật tuy nhiên mức độ bảo vệ lại có sự khác nhau và phát triển hơn qua từng thời kỳ.

Việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình lần đầu được ghi nhận ở điều 147 BLDS 1995 tuy nhiên còn đơn giản, chưa rõ nét.

Đến BLDS 2005, vấn đề này được quy định tại Điều 148, thêm một điều khoản mới, tiến bộ hơn, có sự phân chia rõ về tài sản trong GDDS: ĐS hay bất ĐS, là tài sản được chuyển giao như thế nào,…

Đến Bộ luật 2015, vấn đề này được quy định tại Điều 133, có thêm những quy định mới rõ ràng, cụ thể về nội dung nhằm bảo vệ tốt hơn cho người thứ ba ngay tình nhất là vấn đề hậu quả pháp lý (K2, Đ138 và K2 Điều 133 BLDS 2015). Tại Điều 133, Khoản 1 vẫn giữ nguyên quy định của Bộ luật 2005 chỉ sửa đổi nhỏ mang tính kỹ thuật. Điều này cũng bổ sung thêm quy định chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu GDDS với người này không bị vô hiệu theo quy định tại Khoản 2 nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

  1. Nội dung:
    1. Căn cứ pháp lý

Theo Điều 117 BLDS 2015 thì GDDS có hiệu lực khi có đủ các điều kiện: Chủ thể có NLPL và NLHV dân sự phù hợp với GDDS được xác lập và hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của GDDS không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Hình thức GDDS cũng là điều kiện có hiệu lực của GDDS (Đ119, BLDS 2015). Nếu vi phạm một trong các điều kiện trên thì GDDS vô hiệu.

Tại Điều 133 BLDS 2015 quy định về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Khi GDDS vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký được chuyển giao cho bên thứ ba thì giao dịch được xác lập với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 BLDS 2015.

Đối với tài sản đã được đăng ký tại CQNN có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một GDDS khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Nếu chưa được đăng ký thì GDDS với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của CQNN có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu GDDS với người này không bị vô hiệu theo quy định tại Khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Điều 167 quy định về việc Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình... trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại ĐS nếu ĐS đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

3.2. Điều kiện để xác định người thứ ba ngay tình trong GDDS vô hiệu.

Một là, trước khi người thứ ba tham gia GDDS đã có một GDDS trước được xác lập nhưng giao dịch trước đó vô hiệu.

Hai là, người thứ ba xác lập giao dịch phải ngay tình nghĩa là họ không biết GDDS trước đó bị vô hiệu bởi bất cứ lý do nào, họ có căn cứ tin rằng đối tượng và chủ thể giao dịch với mình đủ điều kiện mà pháp luật quy định.

Ba là, người thứ ba tham gia vào GDDS phải là người có đầy đủ NLPL và NLHV dân sự. Trường hợp mà họ không có đầy đủ NLHV thì phải có người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Bốn là, người thứ ba đã thực hiện nghĩa vụ và hưởng những quyền dân sự trong giao dịch do họ xác lập. Nói cách khác, họ đã nhận tài sản từ giao dịch và mục đích của giao dịch đã đạt được.

Năm là, tài sản thực hiện giao dịch phải là những tài sản phải được phép lưu thông trên thị trường theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì giao dịch đảm bảo có nếu tài sản được phép giao dịch không bị cấm giao dịch theo quy định của pháp luật tại thời điểm giao dịch xác lập. Đối với tài sản cấm lưu thông thì người thứ ba buộc phải biết và việc xác lập giao dịch đối với loại tài sản này đều không được pháp luật bảo vệ. Với tài sản bị hạn chế lưu thông thì khi đảm bảo các điều kiện ràng buộc kèm theo thì GDDS đó mới có hiệu lực[3].

Sáu là, mục đích và nội dung của giao dịch không được trái quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.

Bảy là, trình tự xác lập giao dịch tuân thủ theo đúng trình tự pháp luật cho phép.

Tám là, khi xảy ra tranh chấp thì người thứ ba ngay tình phải có yêu cầu độc lập được hưởng tài sản hay bồi thường thiệt hại, nếu tài sản đã bị trả cho chủ sở hữu hoặc xung công quỹ.

3.3. Hậu quả pháp lý và việc bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.

Có thể thấy quyền lợi của người thứ ba ngay tình được quy định khác nhau trong nhiều trường hợp khi GDDS vô hiệu. Với ĐS không phải đăng ký quyền sở hữu, được chuyển giao bằng GDDS có đền bù thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực vì họ không biết việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên nếu họ có tài sản này thông qua giao dịch không có đền bù thì GDDS với người thứ ba không có hiệu lực vì nó không ảnh hưởng đến lợi ích của họ.

Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản mới có quyền thực hiện các GDDS liên quan đến tài sản đó. Nếu tài sản này đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì GDDS với người thứ ba vô hiệu vì người thứ ba không thể sang tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu do chủ sở hữu không chuyển giao quyền sở hữu cho người thứ ba.

Nếu người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của CQNN có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó không phải do quyết định của bản án thì GDDS của người thứ ba ngay tình vẫn có hiệu lực. Vì, văn bản mua bán đấu giá, bản án, quyết định của CQNN có thẩm quyền là căn cứ xác lập quyền sở hữu hợp pháp của một người đối với tài sản, do vậy, nếu người thứ ba thực hiện GDDS với người có quyền sở hữu hợp pháp thì họ có quyền sang tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu. Người nào có lỗi trong việc xác lập quyền sở hữu của người chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình thì phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu ban đầu của tài sản nếu có[4].

  1. Ý nghĩa:

Việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia giao dịch, tạo một cơ chế điều hòa lợi ích giữa chủ sở hữu và người thứ ba ngay tình với mục đích bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu hợp pháp trên tài sản, quyền lợi chính đáng của các bên tham gia GDDS đồng thời xem xét đến việc đảm bảo tính ổn định của quan hệ dân sự, khuyến khích các chủ thể tự bảo vệ quyền lợi của mình, góp phần xây dựng ý thức pháp luật của các bên trong quan hệ dân sự.

 Quy định mới  của BLDS 2015 giúp bảo đảm tốt hơn, công bằng, hợp lý hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình - vốn luôn bị yếu thế khi tham gia các GDDS.

Quy định chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình của BLDS 2015 về nguyên tắc, nó đồng thời bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu và người thứ ba ngay tình khi tham gia các GDDS liên quan đến đối tượng giao dịch cùng là một tài sản. Tuy nhiên, quy định này rõ ràng có lợi hơn cho người thứ ba và làm hạn chế đi quyền lợi của chủ sở hữu bởi nếu chủ sở hữu khởi kiện và thắng thì việc thi hành án để đòi bồi thường là không dễ dàng. Các bên cần thận trọng trong việc xác lập các GDDS, nhất là các hợp đồng liên quan đến tài sản có giá trị lớn[5].

Đằng sau quyền lợi của người thứ ba ngay tình còn là quyền lợi của toàn xã hội. Nếu tuyệt đối hóa quyền được đòi lại hoàn toàn của chủ sở hữu sẽ vô tình tạo nên tâm lý e dè, sợ hãi của các chủ thể khi tham gia GDDS.

  1. Thực tế cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu ở Việt Nam hiện nay.

Thực tế việc bảo vệ người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu còn nhiều vướng mắc, vì luật quốc gia chưa có định nghĩa cụ thể, dẫn đến những bất cập trong giải quyết tranh chấp, quyền lợi hợp pháp cũng đôi lúc không được công nhận và còn làm ảnh hưởng đến quyền của chủ sở hữu tài sản trong GDDS có người thứ ba ngay tình đó. Trường hợp cụ thể liên quan đến vấn đề này như: Ngày 26/1/2021 anh Nam bán chiếc xe máy Cường với giá 50 triệu đồng và sau khi đăng ký quyền sở hữu xe tại CQNN có thẩm quyền anh Cường đã bán lại cho bên thứ ba là anh Hà. Tuy nhiên sau đó ngày 5/3/2021 anh Nam đã gửi đơn yêu cầu Tòa tuyên bố GDDS vô hiệu do việc mua bán giữa anh và anh Cường là do bị đe dọa. Trong trường hợp này, tính đến ngày 5/3/2021 thì thời gian thực hiện giao dịch đã diễn ra được 1 tháng 7 ngày trong khi đó theo quy định của BLDS 2015 tại Điểm c Khoản 1 Điều 132  thì: thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố GDDS vô hiệu được quy định tại Bộ luật này là 2 năm kể từ ngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép. Do vậy theo yêu cầu của anh Nam thì giao dịch giữa anh và anh Cường  sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên giao dịch giữa anh Cường và người thứ ba ngay tình không bị vô hiệu bởi trước đó anh Cường đã đăng ký quyền sở hữu đối với chiếc xe này (Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015). Chính vì vậy quyền lợi của anh Hà được bảo vệ trong trường hợp này.

  1. Phần kết luận

Như vậy, khi GDDS vô hiệu, vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình được đặt ra, tuy nhiên việc này phải đặt trên sự cân bằng với lợi ích của chủ sở hữu ban đầu. Đồng thời, công nhận giao dịch có hiệu lực là cách tối ưu để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhưng không phải trong mọi trường hợp giao dịch của người thứ ba cũng được công nhận có hiệu lực. Nếu công nhận giao dịch của người thứ ba ngay tình có hiệu lực thì họ nhận được tài sản giao dịch nhưng nếu vô hiệu thì quyền lợi của họ được bảo vệ bằng cách yêu cầu bồi thường thiệt hại. Để góp phần bảo vệ hợp lý quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu, pháp luật cần phân chia trường hợp tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà người thứ ba ngay tình căn cứ vào tình trạng đăng ký để xác lập giao dịch thì giao dịch của người thứ ba không bị vô hiệu, cần xem xét rõ tính ngay thẳng, quyền lợi của người thứ ba ngay tình, cũng như sửa đổi hợp lý hơn Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015.

Danh mục tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Phương Thúy (2008), Giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  2. Trường đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
  3. Bích Phượng, Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, tạp chí Tòa Án nhân dân điện tử, ngày 28/2/2019, truy cập ngày 29/6/2021.
  4. Luật sư Võ Văn Tú, Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, truy cập tại https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/NGUOI-THU-BA-NGAY-TINH-TRONG-GIAO-DICH-DAN-SU-774/ ngày 29/6/2021.
  5. Ngô Thị Mỹ Dung, VKSND tp Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, Điều kiện bảo vệ người thứ ba ngay tình, báo Kiểm sát online, ngày 17/11/2017, truy cập ngày 29/6/2021.
  6. TS. Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học bộ luật dân sự  của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, NXB Tư pháp.

 

 

[1] Nguyễn Phương Thúy (2008), Giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2] Trường đại học Luật Hà Nội (1999),Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Công an nhân dân.

[3] Ngô Thị Mỹ Dung, VKSND tp Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, Điều kiện bảo vệ người thứ ba ngay tình, báo Kiểm sát online, ngày 17/11/2017, truy cập ngày 29/6/2021.

 

[4] TS. Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học bộ luật dân sự  của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, NXB Tư pháp.

[5] Luật sư Võ Văn Tú, Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, truy cập tại https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/NGUOI-THU-BA-NGAY-TINH-TRONG-GIAO-DICH-DAN-SU-774/ ngày 29/6/2021.

 


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem