200 CÂU TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT DÀNH CHO HÒA GIẢI VIÊN Ở CƠ SỞ Ở VÙNG SÂU, VÙNG XA, VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

Ngày đăng 27/08/2023
476 Lượt xem

Tác giả

I. Tìm hiểu một số quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở

1. Đề nghị cho biết căn cứ để tiến hành hòa giải ở cơ sở?

Hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 16 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 như sau:

- Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải;

- Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải;

- Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

2. Đề nghị cho biết, hòa giải viên ở cơ sở được tiến hành hòa giải đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật nào?

Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi là Nghị định số 15/2014/NĐ-CP) thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây:

- Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác);

- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;

- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;

- Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính;

- Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây:

+ Không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự (nay là Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;

+ Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 (nay là khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) của Bộ luật tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;

+ Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại Khoản 2 Điều 164 (nay là Khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Khoản 1 Điều 169 (nay là Khoản 1 Điều 282 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) của Bộ luật tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;

- Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016) hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật xử lý vi phạm hành chính;

- Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.

3. Nhà ông N và ông S cùng sử dụng con ngõ chung. Tuy nhiên nhà ông N thường để các vật dụng cày, bừa, cuốc, thuổng... ở ngay lối đi khiến cho nhà ông S nhiều khi rất khó khăn trong việc đi vào nhà của mình. Ông S đã nhắc nhở ông N nhiều lần nhưng vẫn không có thay đổi, dẫn đến việc hai nhà cãi vã rất căng thẳng. Hỏi mâu thuẫn giữa ông N ông S có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở không?

Điểm a khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP quy địnhhòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác).

Trong tình huống trên, nhà ông S và nhà ông N xảy ra mâu thuẫn trong việc sử dụng con ngõ chung, xuất phát từ việc nhà ông N thường để các vật dụng cày, bừa, cuốc, thuổng... ở ngay lối đi khiến cho nhà ông S gặp khó khăn trong việc đi ra, vào nhà của mình. Do đó, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP thì tranh chấp này thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở.

4. Đề nghị cho biết hòa giải viên ở cơ sở không được tiến hành hòa giải đối với những trường hợp nào?

Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP thì không hòa giải các trường hợp sau đây:

- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;

- Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội;

- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;

- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính, trừ các trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;

- Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở, bao gồm:

+ Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy định của Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành;

+ Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành.

5. A và B (đều 20 tuổi) rủ nhau mua chung một ít ma túy ngoài biên giới về bán cho bà con trong bản để giảm đau khi cần. Do mâu thuẫn trong phân chia tiền lãi nên A và B đã cãi nhau ầm ĩ bản làng và “từ” mặt nhau. Hỏi tranh chấp giữa A và B có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở không? Vì sao?

Điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định không hòa giải trong trường hợp vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều này.

Trong tình huống trên, A và B đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do đó, việc làm của A và B là vi phạm pháp luật hình sự và theo quy định tại Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP thì đây là tranh chấp không thực hiện hòa giải.

6. Chị X là công nhân của nhà máy. Do thường xuyên nghỉ làm không phép vượt quá số lần quy định nên Công ty nơi chị đã làm việc ra quyết định sa thải chị X. Chị X đến nhờ ông K là hòa giải viên ở cơ sở của Tổ dân phố nơi chị đang sống tiến hành hòa giải với Công ty để chị được trở lại làm việc. Hỏi ông K có tiến hành hòa giải được không?

Tình huống trên tranh chấp phát sinh trong quan hệ lao động, cụ thể là tranh chấp về việc chấm dứt quan hệ lao động giữa chị X và Công ty nơi chị làm việc. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật hòa giải ở cơ sở (hướng dẫn chi tiết tại điểm đ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP) thì hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, ông K – hòa giải viên ở cơ sở của Tổ dân phố nơi chị X đang sinh sống không hòa giải tranh chấp này.


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem