Ưu thế và hạn chế của chất liệu ngôn ngữ trong xây dựng tác phẩm văn chương (Tài liệu tham khảo văn học)

Ngày đăng 10/05/2023
982 Lượt xem

Tác giả

1. Ưu thế

1.1. Sử dụng ngôn ngữ tự nhiên, hàng ngày sẽ làm cho văn chương có ưu thế trong việc phổ biến rộng rãi, truyền bá qua không gian và thời gian. Kho tàng văn học dân gian là minh chứng thuyết phục cho ưu thế này. Những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết ra đời khi con người chưa có chữ viết nhưng nhờ sử dụng ngôn ngữ tự nhiên, hàng ngày đã được lưu truyền qua bao thế hệ cho đến tận ngày nay. Những câu tục ngữ tổng kết những chiêm nghiệm, phán đoàn của con người qua cuộc sống lao động, sản xuất, những câu ca dao ngọt ngào về tình yêu đôi lứa, về tình cảm gia đình của các vùng, miền… còn mãi đến ngàn đời cũng bởi được lưu truyền nhờ sử dụng ngôn ngữ tự nhiên như vậy. Ngoài kho tàng văn học dân gian Việt Nam, chúng ta còn được biết đến kho tàng văn học dân gian nước ngoài cũng hết sức đặc sắc, phong phú. Khẳng định ưu thế của văn chương trong việc phổ biến rộng rãi, truyền bá qua không gian, thời gian là vì như vậy.

1.2. Với tư cách là phương tiện của văn chương, ngôn ngữ là hình thức vật chất luôn có hai mặt là âm thanh và ngữ nghĩa. Hai mặt này có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trở thành phương tiện cho nhận thức và tư duy. Vì thế ngôn ngữ có khả năng diễn đạt tất cả các nội dung, tư tưởng, tình cảm của con người, từ những cái cụ thể đến những cái trừu tượng, khái quát. Đọc “ Chí Phèo” của Nam Cao, chúng ta không chỉ hình dung một cách chân thực hình ảnh một người nông dân lương thiện đã bị lưu manh hoá, bần cùng hoá qua vẻ ngoài gớm ghiếc mà qua những tiếng chửi, qua quá trình thức tỉnh lương tri của một buổi sáng sau khi tỉnh rượu chúng ta còn thấu hiểu được khát khao được làm người, khát khao hoà nhập vào cộng đồng của Chí. Điều này một hoạ sỹ vẽ chân dung Chí Phèo không bao giờ có khả năng diễn tả hết được. Chính vì thế, khả năng biểu đạt của văn chương là lớn nhất trong các ngành nghệ thuật.

Khi ngôn ngữ chuyển nghĩa, khả năng biểu đạt của nó càng lớn hơn. Ưu thế này tạo ra tính đa nghĩa trong văn chương. Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là một minh chứng sống động:

  “Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”

Nhờ phương thức ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, Xuân Diệu đã đưa ngươì đọc vào một thế giới huyền diệu, đánh thức những cảm quan nghệ thuật của nhạc và của thơ.

1.3. Đặc tính võ đoán của ngôn ngữ văn chương mang lại sự mềm dẻo, linh hoạt, dễ dàng chuyển hoá, đa nghĩa cho văn chương. Các hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa, hiện tượng tạo nghĩa mới cho từ… đều giúp cho ngôn ngữ văn chương phong phú, linh hoạt, biến ảo hơn và có sự quyến rũ cúng như tạo sức hấp dẫn riêng. Chỉ bằng một hình ảnh về “sợi chỉ xanh óng ánh” giữa bom đạn nơi núi rừng Trường Sơn, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc hiểu được điều làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ thần thánh của dân tộc Việt Nam chính là lòng tin, là sự quyết tâm không gì thay đổi được của triệu triệu con người Việt Nam.

1.4. Ưu thế của tính hình tuyến trong ngôn ngữ văn chương là tái hiện được quá trình diễn biến của sự vật trong một thời gian dài, không gian rộng; một sức dung? chứa khổng lồ mà không một nhà điêu khắc, âm nhạc hay hội hoạ nào làm được. Không một bản nhạc hay một bức tranh nào có thể tái hiện được số lượng các sự kiện, nhân vật đồ sộ và kéo dài như trong tác phẩm “ Tam quốc diễn nghĩa”, cũng không một tác phẩm điêu khắc nào khắc họa được đầy đủ 15 năm lưu lạc của Thuý Kiều…

1.5. Nếu xét về quá trình sáng tác, ngôn ngữ văn chương có lợi thế hơn so với các ngành nghệ thuật khác là điểm nhìn. Trong nghệ thuật văn chương có thể có nhiều điểm nhìn khác nhau của nhiều người, bản thân điểm nhìn đó lại có thể thay đổi theo từng sự việc. Do đó ngôn ngữ văn chương thường đa thanh, thể hiện cuộc sống rất sinh động, đa dạng. Các ngành nghệ thuật khác không có được lợi thế này vì điểm nhìn thường là điểm nhìn tĩnh. Có thể lấy ví dụ rất chân thực qua đoạn văn miêu tả tiếng chửi của Chí Phèo ngay mở đầu tác phẩm. Một đoạn văn rất ngắn nhưng lại có nhiều điểm nhìn: Tác giả - người kể chuyện, người dân làng Vũ Đại, bản thân nhân vật Chí Phèo.

2. Hạn chế

Bên cạnh những ưu thế không một ngành nghệ thuật nào có được ngôn ngữ khi xây dựng tác phẩm văn chương còn có những hạn chế sau:

2.1. Bản thân ngôn ngữ tự nó tạo nên rào cản bởi ngôn ngữ trên thế giới vô cùng phong phú. Chúng ta có rất nhiều ngôn ngữ, ngay cả những dân tộc sử dụng ngôn ngữ giống nhau nhưng vẫn có những đặc sắc và những nét riêng biệt. Trong khi đó số lượng màu sắc hay nốt nhạc là thống nhất trên toàn thế giới. Hạn chế này của ngôn ngữ tạo khó khăn trong việc lĩnh hội, tiếp nhận và bình giá.

2.2. Do ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, nên bất cứ hình tượng nào do ngôn ngữ tạo ra đều phải thông qua con đường tư duy, vì vậy nó không có khả năng tác động trực tiếp lên các giác quan của người đọc như các loại hình khác/ Chúng ta xem một bộ phim có cảnh rùng rợn đầu rơi, máu chảy sẽ tác động mạnh và trực tiếp hơn là đọc đoạn văn miêu tả cảnh ấy.

2.3. Tính võ đoán của ngôn ngữ khi sử dụng làm chất liệu của ngôn ngữ văn chương vừa giúp ngôn ngữ văn chương đa nghĩa, vừa gây nên sự khó hiểu, nhiều khi khó khám phá và giải nghĩa được. Điều này làm hạn chế khả năng phổ biến của văn chương. Nguyệt cầm của Xuân Diệu là bài thơ rất hay, nhưng cũng rất khó trong việc cắt nghĩa và hiểu bởi tác giả sử dụng nhiều từ theo phơng thức chuyển nghĩa.

2.4. Xuất phát từ tính hình tuyến, ngôn ngữ không thể đồng thời biểu hiện các sự vật, hiện tượng ở các không gian khác nhau, các thời gian khác nhau. Một hoạ sỹ có thể vẽ một bức tranh diễn tả một lớp học, trong đó miêu tả được rất nhiều các em học sinh với các tư thế, các hành động nhưng nếu nhu một nhà văn thì phải miêu tả lần lượt. Cũng như Nguyễn Du phải miêu tả lần lượt Thuý Kiều rồi mới miêu tả Thuý Vân, không thể cùng một lúc miêu tả hai người.

Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ ngôn ngữ, bởi đó, cần chú ý đến những ưu thế cũng như hạn chế của chất liệu ngôn từ trong việc xây dựng tác phẩm của các nhà văn.

 


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem