Tài liệu đặc trưng của Bộ luật Hammurabi ở Lưỡng Hà cổ đại (Tài liệu tham khảo Bộ Luật Hammurabi)

Ngày đăng 10/04/2023
146 Lượt xem

Tác giả

MỞ ĐẦU

Trong quá trình hình thành và phát triển của nhân loại đã có nhiều kiểu nhà nước được hình thành, với những phương pháp cai trị khác nhau, trong đó, cai trị bằng luật pháp là một trong những phương pháp phổ biến và đạt hiệu quả cao hơn cả. Nhắc đến vấn đề này, chúng ta phải kể đến Bộ luật Hammurabi ở Lưỡng Hà thời kì cổ đại, đây có thể được coi là bộ luật thành văn tương đối hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử loài người. Nó chứa đựng trong những điều Luật những giá trị sâu sắc có sức ảnh hưởng lớn đến lịch sử pháp luật thế giới. Nhằm tìm hiểu rõ hơn về bộ luật này, sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiều và nghiên cứu đề tài: “Đặc trưng của Bộ luật Hammurabi ở Lưỡng Hà cổ đại”.

NỘI DUNG

Khái quát về Bộ luật Hammurabi

Khái quát chung

Ra đời trong bối cảnh xã hội chiếm hữu nô lệ ở Lưỡng Hà cổ đại, Bộ Luật có vai trò phản ánh các quan hệ thống trị đương thời, nó đồng thời là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ quan hệ đó.

Xã hội Lưỡng Hà cổ đại thời Hammurabi được chia thành ba giai cấp: giai cấp quý tộc, bình dân và nô lệ. Về cơ bản có thể nói đến hai giai cấp đối kháng trong xã hội Lưỡng Hà cổ đại là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Theo đó, nô lệ là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, phải phục tùng chủ nô về mọi mặt. Chủ nô là giai cấp thống trị, muốn duy trì trật tự thống trị này bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó pháp luật được coi là một trong những biện pháp chủ yếu. Điều này được phản ánh một cách rõ nét trong Bộ luật Hammurabi, các quy phạm pháp luật của Bộ luật, dù là dân sự hay hình sự đều hướng tới sự điều chỉnh của mình vào việc bảo vệ quyền lợi của chủ nô.

Cơ sở kinh tế của Lưỡng Hà cũng được Bộ luật Hammurabi đưa ra những quy định trừng phạt người thiếu trách nhiệm, khuyến khích thiết lập nên chế độ sở hữu ruộng đất rõ ràng, phát triển ngoại thương.

Nền tảng của xã hội là gia đình, tư tưởng này cũng được Bộ luật đưa vào, ngăn cấm, trừng phạt người cùng đẳng cấp, địa vị, đồng thời ngang bằng với thiệt hạ mà kẻ phạm tội gây ra. Cùng với đó, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của kẻ yếu cũng là nguyên tắc cơ bản. Đặt trong bối cảnh có nhiều áp bức bất công, những quy định này thực sự có nhiều ý nghĩa tiến bộ, mang tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Bộ luật Hammurabi có những hình phạt tàn bạo, một mặt các hình phạt đó là vô nhân đạo, chà đạp lên phẩm giá con người, mặt khác đối tượng áp dụng các hình phạt đó lại rất hạn chế, áp dụng chủ yếu cho những hành vi trái đạo đức xã hội.

Kết cấu của Bộ luật Hammurabi

Bộ luật Hammurabi bao gồm gần 300 phần được cấu kết kỹ càng hơn bất kỳ bộ luật nào trước đó mà chúng ta được biết, bao gồm ba phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.

- Phần mở đầu:

+ Khẳng định rằng vương quốc Babilon là do các thần linh tạo ra.

+ Hammurabi kể công lao của mình đối với đất nước.

- Phần nội dung (chứa đựng 282 Điều luật): Tuy nội dung của bộ luật chưa phân chia thành từng ngành luật riêng biệt, nhưng Bộ luật đã được phân chia thành các điều khoản ra từng nhóm riêng theo nội dung.

+ Từ Điều 42 đến Điều 48 là những quy định về lĩnh canh ruộng đất.

+ Điều 53 đến Điều 56 là những điều luật quy định về việc bảo vệ công trình thủy lợi.

+ Nhóm những điều luật phản ánh quan hệ dân sự bao gồm: từ điều 49 đến điều 52, điều 58 đến điều 106, điều 112 đến điều 115, điều 121, 122.

+ Nhóm những điều luật phản ánh quan hệ hôn nhân gia đình: điều 127 đến điều 129, điều 135 đến điều 166.

+ Nhóm những quy định về tội phạm: điều 196 đến điều 200, điều 226…

- Phần kết luận: Trong phần này, Hammurabi lại tán dương công đức của mình đối với đất nước. Ông khẳng định bộ luật do ông viết là tuân theo ý nguyện của thần linh cho nên đến nghìn đời sau vẫn còn giá trị, các vị vua và thần dân bắt buộc phải tuân theo. Hammurabi tuyên bố sẽ trừng trị tất cả những ai xem thường và có ý định hủy bỏ bộ luật này.

Những đặc trưng của Bộ luật Hammurabi

1. Về mặt nguồn gốc

Bộ luật Hammurabi được xây dựng trên cơ sở pháp điển hoá nhiều văn bản trước đó và trên cơ sở kế thừa luật lệ của người Sumer, người Amôrít. Bộ luật Hammurabi được phát hiện năm 1901 của đoàn khảo cổ người Pháp, khắc trên đá bazan cao 2,25m và dựng tại quảng trường thành phố cho nhân dân đọc mà thi hành. Bộ luật Hammurabi là Bộ tương đối hoàn chỉnh thời kỳ cổ đại, gồm 282 điều (hiện chỉ đọc được 247 điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận. Đây là một bộ luật tổng hợp, được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài, chủ yếu điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích của giai cấp thống trị.

Vượt ra khỏi hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của Bộ luật được hiện rõ ngay từ mục đích của Bộ luật, thể hiện ở phần mở đầu của Bộ luật: “Vì hạnh phúc của loài người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm – Hammurabi, một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samát sai xuống dân đen, tỏa ánh sáng khắp muôn dân”. Về kĩ thuật lập pháp, tuykhông phân chia thành các ngành luật nhưng bộ luật cũng được chia thành nhóm cácđiều khoản có nội dung khác nhau. Phạm vi điều chỉnh của bộ luật là những quan hệ xã hội rộng, bao quát lên toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội như hôn nhân gia đình, ruộng đất, thừa kế tài sản, hợp đồng dân sự, hình sự, tố tụng…

2. Về mức độ điều chỉnh

Mức độ điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào tính chất của các loại quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật, các yếu tố chủ quan của nhà làm luật. Thông thường người ta phân biệt thành hai mức độ điều chỉnh pháp luật: cụ thể – chi tiết và khái quát hoá cao. Bộ luật về cơ bản áp dụng mức độ điều chỉnh cụ thể, chi tiết.

3. Về mặt hình thức pháp lí

Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài. Phần nội dung, bộ luật tập trung điều chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu đó là dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình và tố tụng, tuy vậy không có sự tách rời giữa các lĩnh vực.Các quy phạm của Bộ luật Hammurabi cũng giống như các bộ luật khác ở Phương Đông thời kỳ cổ đại là mang tính hàm hỗn, các điều luật đều kèm theo chế tài.

a) Về dân sự

Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của Bộ luật này chính là các quy định về dân sự. Bộ luật đã đặc biệt chú ý điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan hệ phổ biến ở xã hội Lưỡng Hà cổ đại, có nhiều quy định không những tiến bộ về nội dung, mà còn chặt chẽ về kĩ thuật lập pháp.

*) Những chế định về hợp đồng (bao gồm hợp đồng mua bán, hợp đồng vay mượn, hợp đồng lĩnh canh ruộng đất, hợp đồng gửi giữ).

- Hợp đồng mua bán: Các chế tài của hợp đồng mua bán thường là chế tài hình sự (Ví dụ: Nếu người bán mà bán trái phép tài sản thuộc sở hữu của người khác thì bị tử hình; Nếu người bán nhận tài sản đó là của mình mà không có người làm chứng thì coi như là phạm tội vu cáo, là muốn chiệm đoạt tài sản của người khác và hình phạt cho họ là tử hình)

Một hợp đồng mua bán có hiệu lực khi có đủ 3 điều kiện: Người bán phải là chủ thật sự của tài sản; Tài sản mua bán phải đảm bảo đúng tính sử dụng của nó; Khi tiến hành kí kết hợp đồng mua bán phải có người làm chứng.

- Hợp đồng vay mượn: Luật quy định rõ mức lãi suất cho từng loại hợp đồng vay (mức lãi suất đối với vay tiền là 1/5, mức lãi suất đối với vay thóc là 1/3); Dùng thân thể con người để làm vật đảm bảo hợp đồng (Nếu con nợ không trả được thì chủ nợ có quyền giữ bất động sản, chính con nợ hoặc người thân con nợ để làm con tin).

- Ngoài ra Bộ luật còn có nhiều quy định tiến bộ về phần hợp đồng lĩnh canh ruộng đất và hợp đồng gửi giữ.

*) Chế định thừa kế

Luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế: thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Con trai và con gái được hưởng quyền thừa kế ngang nhau. Con ngoài giá thú của chủ nô đối với nữ nô lệ, nếu được người cha thừa nhận những đứa con này là của y thì họ cũng được quyền hưởng thừa kế.

b) Về lĩnh vực hôn nhân gia đình

Luật Hammurabi quy định phụ nữ được người đàn ông mua về làm vợ, người chồng được coi là người chủ của người vợ, tuy nhiên việc kết hôn phải có giấy tờ. Luật đề cao vai trò của người đàn ông trong gia đình.

=> Giống với Bộ luật của các nước phương Đông cổ đại khác, Bộ luật Hammurabi đã thể hiện rõ sự thiên vị đàn ông và bảo vệ chế độ gia trưởng uy quyền độc đoán.

c) Về hình sự

Luật coi hình phạt là sự trừng trị tội lỗi, mang tính chất trả thù ngang bằng nhau và hình phạt thì còn mang tính dã man. Tuy nhiên, Luật cho phép phạt tiền để chuộc tội. Luật Hammurabi còn quy định trách nhiệm tập thể của tất cả các thành viên công xã đối với nhà nước.

Một số tội phạm cụ thể: Tội xâm phạm đến tài sản của người khác (điều 6, điều 8); Các tội xúc phạm đến thân thể, danh dự của giai cấp trên (điều 202, điều 205); Tội giải thoát nô lệ hay giúp cho người nô lệ chạy trốn (điều 15).

d) Về lĩnh vực tố tụng

Có hai quy định rất đặc thù về tố tụng của Bộ luật này: Thứ nhất, quy định về trách nhiệm của thẩm phán : Nếu thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và không bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa. Thứ hai, về hình thức xét xử: Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến một dòng sông và nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ sở hữu nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu dòng sông chứng minh rằng bị đơn là không có tội, tức là anh ta còn sống sót, thì nguyên đơn sẽ bị giết chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơ => Hình thức xét xử còn mang tính thần thánh (phụ thuộc vào thần linh).

4. Bộ luật có nhiều tư tưởng mang tính thời đại tiến bộ

Bộ luật có nhiều quy định mang tính chất tiến bộ, giá trị lâu bền vượt thời gian. Bộ luật là nguồn tài liệu phong phú cho phép người hiện đại hiểu biết hơn về lịch sử, phong tục, tập quán và nhiều mặt khác của một xã hội cổ xưa.

Bên cạnh việc bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, pháp luật cũng bảo vệ những người yếu thế, được xem như là một nguyên tắc tiến bộ. Ngay ở phần mở đầu của bọ luật, Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua thống trị “Khi mác đúc của ta thống trị muôn dân một cách công bằng, chính nghĩa truyền khắp đất nước và tạo ra hạnh phúc cho nhân dân”. Thể hiện nguyên tắc này, bộ luật ngăn cấm hành vi xâm phạm thân thể của người phải vào nhà người khác làm con tin để gán nợ, giới hạn thời gian làm con tin chỉ trong 3 năm, quy định là tội phạm ngay cả đối với những hành vi xâm phạm đến nô lệ; quy định cho phép con nợ được hoãn trả nợ trong một năm nếu như năm đó bị mất mùa; quy định bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên, con nuôi cũng phải được đặt ngang quyền với con đẻ.

Đặt trong bối cảnh có nhiều áp bức bất công, những quy định này thực sự có nhiều ý nghĩa tiến bộ mang tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Không những tiến bộ trong nguyên tắc này, bộ luật Hammurabi còn có những tiến bộ hơn trong việc áp dụng các hình phạt. Bộ luật đã đưa ra một hệ thống các hình phạt từ nặng tới nhẹ, nhưng đối với các hình phạt nặng thì áp dụng rất hạn chế. Không dừng lại ở đó, bộ luật còn có những quy định về trách nhiệm hình sự, vấn đề miễn trách nhiệm hình sự cũng được đề cập. Đồng thời có sự phân biệt rõ ràng các chế định miễn trách nhiệm hình sự với trường hợp không có tội.

Đánh giá nguyên nhân dẫn đến những nét đặc trưng của Bộ luật Hammurabi

Có ba nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự xuất hiện của những đặc trưng đó:

Trước hết là do điều kiện quốc gia: Lưỡng Hà là một vùng đất có nền kinh tế hàng hóa xuất hiện sớm, phát triển bậc nhất. Biểu hiện như sau: Cuối thiên niên kỉ IV TCN nghề nông ở Lưỡng Hà đã rất phát triển nhờ vào hệ thống các công trình thủy lợi. Đầu thiên niên kỉ thứ III TCN, trong kinh tế nông nghiệp, cư dân đã biết sử dụng công cụ bằng đồ đồng. Giữa thiên niên kỉ thứ III, đồ sắt xuất hiện. Cùng với đó là nền kinh tế hàng hóa trao đổi dấy lên mạnh mẽ.

Tiếp theo dựa trên nền kinh tế phát triển, xã hội cũng có sự phân hóa sâu sắc. Các thành tựu lần lượt được khám phá, nổi bật là sự xuất hiện của chữ viết (thiên niên kỉ thứ IV TCN) – là công cụ đắc lực cho việc hình thành nên bộ luật.

Nguyên nhân cuối cùng là sự tiếp thu có chọn lọc và kế thừa từ các bộ luật thành văn đã có trước đó để hình thành nên bộ luật Hammurabi.

KẾT LUẬN

Bộ luật Hammurabi là Bộ luật thành văn cổ nhất trên thế giới, là một trong những thành tựu có giá trị bậc nhất của lịch sử văn minh cổ đại. Giá trị của Bộ luật này cho đến nay vẫn tiếp tục được nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu, khai thác và kế thừa. Bộ luật còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú,qúy giá để nghiên cứu nền văn hoá Babilon – Lưỡng Hà cổ đại. Vượt ra khỏi hạn chế về tính giai cấp, có thể thấy chứa đựng trong nhiều quy phạm của Bộ luật dù ở dạng thức sơ khai nhất, cổ xưa nhất vẫn hằng chứa đậm nét những giá trị tiến bộ, nhân văn,đặc biệt là về kĩ thuật lập pháp trong các qui định từ hôn nhân gia đình đến thừa kế, và quy định về hợp đồng. Cho đến tận ngày nay, ta vẫn không khỏi ngạc nhiên và trân trọng những giá trị lịch sử pháp lý của Bộ luật, những quy định ra đời cách đây gần 4000 năm vẫn chứa đựng nhiều giá trị đương đại đáng kế thừa và phát triển.

 

11

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Trường Đại học Luật Hà Nội, nxb Công an nhân dân.

2. Bộ luật Hammurabi.

3. Bộ luật Manu.

4. Luật Hammurabi – Những điểm tiến bộ và hạn chế, Dương Thị Huyền, tạp chí Khoa học và Công nghệ, tr. 33, 34.

5. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2005.

6. Mortimer Chambers, Barbara Hanawalt, Lịch sử văn minh phương Tây, NXB Văn hóa thông tin, HH, 2003.


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem