PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ CISG ĐÃ ÁP DỤNG TRONG VỤ KIỆN: FROZEN PORK CASE

Ngày đăng 19/04/2023
182 Lượt xem

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ CISG ĐÃ ÁP DỤNG TRONG VỤ KIỆN: FROZEN PORK CASE

* Phân tích các quy định cụ thể

Trong trường hợp này, Tòa án Liên bang cho rằng bị đơn có quyền giảm giá do hàng hóa được giao không phù hợp theo các điều 35, 36, 50 CISG cho đến khi thịt lợn được giao đã bị ảnh hưởng bởi các biện pháp phòng ngừa trong sắc lệnh được ban hành ở Bỉ. Cụ thể, theo quan điểm của Tòa án Liên bang, điều này áp dụng cho hai lần giao hàng đầu tiên, trong khi lần giao hàng cuối cùng không bắt nguồn từ động vật bị giết mổ trong khoảng thời gian mà pháp lệnh của Bỉ đề cập đến (trong sắc lệnh của Bỉ ghi rõ là đối với thịt lợn và bò bất kể xuất khẩu hay chưa mà đc giết từ 15/1-23/6/99 đều bị nghi ngờ nhiễm dioxin). Căn cứ vào điều đó, người mua đã giảm giá mua một cách chính xác xuống 0 cho các lần giao hàng được thực hiện vào ngày 15 và 27 tháng 4 năm 1999. Mặt khác, người mua nợ người bán toàn bộ giá mua cho lần giao hàng được thực hiện vào ngày 7 tháng 5 năm 1999 với số tiền 49,146,75 DM.

Tòa án Liên bang cho rằng khi giải thích các quy định của CISG, chúng ta phải xem xét tính chất quốc tế của nó và sự cần thiết để thúc đẩy áp dụng thống nhất và bảo vệ thiện chí trong thương mại quốc tế (Điều 7.1 CISG).

Điều 7.1. 

“Khi giải thích Công ước này, cần phải xem xét đến tính chất quốc tế của nó và nhu cầu thúc đẩy tính thống nhất trong việc áp dụng và tuân thủ thiện chí trong thương mại quốc tế.”

Theo Điều 7.1, một trong những nguyên tắc để diễn giải CISG đó là tham chiếu đến tính chất quốc tế, trong bối cảnh chung của Công ước, mà không cần viện dẫn đến các nguyên tắc được xây dựng cho luật pháp của bất kỳ quốc gia nào. Việc áp dụng Công ước để điều chỉnh một giao dịch quốc tế theo cách tiếp cận quốc tế, không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên, địa điểm thực hiện hợp đồng hay loại hàng hóa, cũng là nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất. Vì vậy, các bên cũng như các Tòa án khi áp dụng CISG, cần tránh việc diễn giải Công ước theo cách hiểu của luật quốc gia. Quy định này đã được áp dụng tại Tòa án liên bang, điều mà trước đó Tòa án bang đã hiểu không đúng khi áp dụng CISG.

Đối với hai lần giao hàng đầu tiên

Hàng hóa có phù hợp không?

Ðiều 35

1. Người bán phải giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu. 

2. Trừ những trường hợp các bên có thỏa thuận khác, hàng hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu: 

a) Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng.

Trong trường hợp này vì hai lần giao hàng đầu tiên được thực hiện vào ngày 15 và 27 tháng 4 năm 1999 và theo các hóa đơn thịt đã được chế biến và đông lạnh vào ngày 3 tháng 3 năm 1999 trong khi việc nghi ngờ ô nhiễm dioxin có hại cho sức khỏe tồn tại đối với tất cả các con lợn được giết mổ từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 23 tháng 7 năm 1999 (Điều 3 của Pháp lệnh Bộ trưởng Bỉ ngày 28 tháng 7/ 1999). Số hàng hóa này chỉ được bán nếu nghi ngờ nhiễm dioxin được các cơ quan kiểm soát có trách nhiệm loại bỏ, chậm nhất là vào ngày 31 tháng 8 năm 1999 bằng cách truy xuất nguồn gốc của hàng hóa hoặc thông qua phân tích trong phòng thí nghiệm. Trên thực tế là bên bán đã không xuất trình được bằng chứng về việc không có dioxin theo yêu cầu. 

Đồng thời Tòa án Liên bang tuyên bố rằng trong thương mại trung gian và bán buôn quốc tế, khả năng tiêu thụ của hàng hoá là một phần của tiêu chuẩn hàng hóa thích hợp. Cụ thể, khả năng tiêu thụ phản ánh mức độ sản phẩm đó đáp ứng được mục đích sử dụng thông thường, trên tương quan với các hàng hóa cùng loại khác theo Điều 35.2.a CISG đặt ra (Phán quyết của Ban Hội thẩm BGHZ 129, 75, 81). Trong trường hợp thực phẩm nhằm mục đích tiêu dùng của con người, khả năng tiêu thụ bao gồm việc hàng hóa không ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, ít nhất là không gây hại cho sức khỏe.

    Do đó, thịt ở  hai lần giao hàng đầu tiên không thể tiêu thụ và không phù hợp với hợp đồng theo tinh thần của Điều khoản 35 (1) và 35 (2) (a) CISG. Cụ thể là các đặc điểm dẫn đến việc bị tịch thu và mất khả năng giao dịch (tradeability) đã có trong  thịt tại thời điểm chuyển giao rủi ro vì về mặt khách quan, vào thời điểm này, rõ ràng thịt có nguồn gốc từ kho ô nhiễm dioxin. Thực tế cho thấy việc nghi ngờ được dấy lên chỉ vài tuần sau đó và dẫn đến các biện pháp phòng ngừa chính thức sâu rộng ở Đức, Liên minh Châu Âu và Bỉ thì không làm thay đổi sự tồn tại của đặc tính hàng hóa có khả năng gây hại cho sức khỏe vào thời điểm rủi ro được chuyển giao. Việc thịt được giao cho Người mua có thực sự bị nhiễm dioxin không và nếu có thì ở mức độ nào là không liên quan vì chỉ riêng sự nghi ngờ đã loại trừ khả năng bán ra thị trường, điều này đã trở nên rõ ràng sau đó và việc người bán đã không làm gì để dập tắt được những nghi ngờ trên đã làm ảnh hưởng đến khả năng bán lại và giao dịch

    Chúng ta cũng không cần phải quyết định xem liệu mối nghi ngờ rằng một số hàng hóa có thể gây hại cho sức khỏe luôn là hành vi vi khiến hàng hóa không phù hợp với hợp hợp đồng liên quan đến thực phẩm hay không. Ít nhất nếu sự nghi ngờ - như trong trường hợp này - đã dẫn đến các biện pháp công khai ngăn cản khả năng giao dịch của hàng hóa, thì hàng hóa đó phải được xem là không phù hợp với hợp đồng đối với lĩnh vực bán buôn và trung gian.

Từ tất cả những phân tích trên, có thể đưa ra kết luận với hàng hóa ở hai lần gia đầu tiên là hàng hóa không phù hợp 

Ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Ðiều 67

1. Khi hợp đồng mua bán quy định việc vận chuyển hàng hóa và người bán không bị buộc phải giao hàng tại nơi xác định, rủi ro được chuyển sang người mua kể từ lúc hàng được giao cho người chuyên chở thứ nhất để chuyển giao cho người mua chiếu theo hợp đồng mua bán. Nếu người bán bị buộc phải giao hàng cho một người chuyên chở tại một nơi xác định, các rủi ro không được chuyển sang người mua nếu hàng hóa chưa được giao cho người chuyên chở tại nơi đó. Sự kiện người bán được phép giữ lại các chứng từ nhận hàng không ảnh hưởng gì đến sự chuyển giao rủi ro. 

 Ðiều 36

1. Người bán chịu trách nhiệm chiếu theo hợp đồng và Công ước này, về mọi sự không phù hợp nào của hàng hóa tồn tại vào lúc chuyển giao quyền rủi ro sang người mua, ngay cả khi sự không phù hợp của hàng hóa chỉ được phát hiện sau đó. 

      Tại thời điểm chuyển giao rủi ro - thời điểm giao hàng từ người bán tại Bỉ cho đại lý giao nhận đầu tiên theo Điều 67(1) vào tháng 4 năm 1999, không có nghi ngờ về việc thịt lợn bị nhiễm dioxin và quan trọng hơn các sắc lệnh liên quan vẫn chưa được ban hành ở Bỉ, Đức và EU. Tuy nhiên, điều này không mâu thuẫn với việc hàng hóa không tuân thủ hợp đồng do việc vi phạm về hàng hóa là đương nhiên (căn cứ Pháp lệnh của Bộ trưởng Bỉ). Cụ thể, tình huống này rơi vào trường hợp tính không phù hợp của hàng hóa được phát hiện sau thời điểm chuyển giao rủi ro theo điều 36 (1) CISG.

     Vì vậy, người bán phải chịu trách nhiệm về sự không phù hợp của hàng hóa trong hai lần giao đầu tiên.

Hậu quả pháp lý ra sao?

Ðiều 50

“Trong trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, dù tiền hàng đã được trả hay chưa, người mua có thể giảm giá hàng căn cứ theo tỷ lệ sự khác biệt giữa giá trị thực của hàng hóa vào lúc giao hàng và giá trị của hàng hóa nếu hàng phù hợp hợp đồng vào lúc giao hàng. Tuy nhiên, nếu người bán loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ chiếu theo điều 37 hoặc điều 48 hoặc nếu người mua từ chối chấp nhận việc thực hiện của người bán chiếu theo các điều này thì người mua không được giảm giá hàng”.

Bởi vì thịt trong hai lần giao hàng đầu tiên không phù hợp với hợp đồng. Theo Điều 50 CISG người mua có thể giảm giá theo tỷ lệ tương ứng của sự chênh lệch giữa giá trị của hàng hóa ký kết và hàng hóa được giao trong thời điểm liên quan khi rủi ro đã được chuyển giao, bất kể giá mua có đã được thanh toán hay chưa. Do đó, người bán phải giảm giá của hai lần giao hàng xuống 0 đối với các lô hàng từng phần không phù hợp vì không còn khả năng nào khác để sử dụng hàng hóa, tổng số tiền giảm giá theo số lượng là 79.066.00 DM (≈ 40.425,80 Euro) 

Đối với lần giao hàng cuối cùng

Theo phán quyết của Tòa án Liên bang, việc giao hàng cuối cùng không có nguồn gốc từ động vật bị giết mổ trong thời hạn được quy định bởi pháp lệnh của Bỉ.

Đối với việc giao hàng ngày 7 tháng 5 năm 1999, người được nhượng quyền của người bán đã đệ trình lên Tòa khu vực rằng thịt đã được xử lý vào ngày 12 tháng 1 năm 1998 (loại bỏ nghi ngờ rằng thịt lợn nhiễm dioxin đã được giết mổ từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 23 tháng 7 năm 1999), và kháng cáo tại Tòa án bang đã chỉ ra một cách chính xác, liên quan đến ghi chú tương ứng trong hóa đơn ngày 7 tháng 5 năm 1999. Bởi vì việc giao hàng có kèm theo giấy chứng nhận và theo thông lệ vào thời điểm đó, hàng hóa đã được chứng nhận không có dioxin là phù hợp cho tiêu dùng của con người và có thể được bán lại mà không bị ảnh hưởng bởi các biện pháp phòng ngừa được yêu cầu ở Đức và Bỉ vào tháng 6 và tháng 7 năm 1999 đối với thịt của động vật giết mổ sau ngày 15 tháng 1 năm 1999.

 Thêm nữa, giả định trường hợp người mua tuyên bố về việc nghi ngờ lô hàng cuối chứa dioxin và khiến lô hàng bị tịch thu và tiêu hủy ở Bosnia-Herzegovina, thì đây chắc chắn không phải là kết quả của việc vi phạm hợp đồng từ phía người bán.

 Vì vậy, hàng hóa của lần giao cuối phù hợp với hợp đồng theo quy định của CISG.

Điều này phù hợp với Điều 35 (1) và 35 (2) (a) của CISG:

Điều 35

“1. Người bán phải giao hàng có số lượng, chất lượng và mô tả theo yêu cầu của hợp đồng và được chứa đựng hoặc đóng gói theo cách thức mà hợp đồng yêu cầu.

2. Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, hàng hóa không phù hợp với hợp đồng trừ khi:

(a) phù hợp với các mục đích mà thông thường hàng hóa có cùng mô tả sẽ được sử dụng;”

 Do đó, thịt trong đợt giao hàng trước phù hợp với mục đích sử dụng thông thường và có thể bán lại. Lần giao hàng cuối cùng phù hợp với hợp đồng.

Dựa trên những điều trên với Điều 50, CISG

Điều 50

“Nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng và cho dù giá đã hoặc chưa đã thanh toán, người mua có thể giảm giá theo tỷ lệ tương ứng với giá trị mà hàng hóa thực tế đã giao tại thời điểm giao hàng tương ứng với giá trị mà hàng hóa phù hợp sẽ có tại thời điểm đó.”

Kết luận:  Người mua nợ người bán toàn bộ giá mua cho lần giao hàng cuối cùng được thực hiện vào ngày 7 tháng 5 năm 1999 với số tiền là 49.146,75 DM. Sau khi trừ các khoản thanh toán một phần lên đến 35.000 DM, số dư còn lại đến hạn là 14.146,75 DM (≈ 7.233,12 Euro).


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem