Bình luận về vụ kiện DS404 mà Việt Nam đã tham gia với tư cách nguyên đơn trong cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO (Tài liệu tham khảo tranh chấp quốc tế)

Ngày đăng 10/04/2023
1111 Lượt xem

Tác giả

MỞ ĐẦU

Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tư cách Thành viên của WTO cho phép Việt Nam tham gia vào một sân chơi bình đẳng, tiếp cận với thị trường hàng hoá, dịch vụ của các Thành viên khác của WTO trên cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch và dựa trên luật lệ. Đặc biệt, tư cách Thành viên cũng đem lại cho Việt Nam cơ hội sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm chống lại những vi phạm của các Thành viên khác. Từ đó, chúng ta cần phải nhắc đến vụ kiện DS404 - Việt Nam kiện Hoa Kỳ về một số biện pháp mà nước này sử dụng trong điều tra chống bán phá giá tôm Việt Nam. Việt Nam đã thắng Hoa Kì tại vụ kiện đầu tiên của mình ở WTO. Bài viết sau đây sẽ đưa ra một vài bình luận về vụ kiện tiêu biểu trên đây dựa trên đề tài “Bình luận về vụ kiện DS404 mà Việt Nam đã tham gia với tư cách nguyên đơn trong cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO”.

NỘI DUNG

  1. Vài nét về phương pháp quy về 0 (zeroing)

     Zeroing là một phương pháp tính toán trong quá trình tính biên độ phá giá trong đó cho phép quy về 0 tât cả các giao dịch có biên độ phá giá âm. Mỹ là nước duy nhất trong 153 thành viên WTO đang sử dụng biện pháp zeroing để tính thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng xuất khẩu sang nước này.

     Ví dụ, nếu một nhà xuất khẩu bị điều tra thực hiện 5 giao dịch xuất khẩu, trong đó có hai giao dịch xuất khẩu có biên độ phá giá là 20%, một giao dịch có biên độ phá giá bằng 0 và hai giao dịch có biên độ phá giá bằng  -25% thì nếu không sử dụng biện pháp zeroing, bình quân biên độ phá giá của nhà xuất khẩu này sẽ là: (20% + 20% + 0% - 25% - 25%): 5 = -7% (với biên độ phá giá âm, tức là không phá giá, nhà xuất khẩu này sẽ không bị áp thuế). Tuy nhiên, nếu sử dụng zeroing thì biên độ phá giá trung bình sẽ là: (20% + 20% + 0% + 0% + 0%): 5 = 8% (và kết quả là nhà xuất khẩu sẽ bị áp thuế 8%). Phương thức này đã khiến cho mức thuế trở nên rất cao và nhiều lần bị các thẩm phán của WTO lên án.

     Việc áp dụng phương pháp zeroing gây ra rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu của nước xuất khẩu bởi một số lý do sau đây:

     Thứ nhất, khi áp dụng phương pháp zeroing, hầu hết các kết quả điều tra đều đưa đến kết luận là có bán phá giá và bị áp thuế chống bán phá giá cao. Điều đó gây bất công và tạo ra nhiều khó khăn cho các nước xuất khẩu, từ đó làm hạn chế sự tự do hóa thương mại.

     Thứ hai, biên độ phá giá bị đẩy lên cao phản ánh không đúng thực tế, khiến số tiền mà doanh nghiệp phải nộp cho thuế chống bán phá giá là một gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

     Thứ ba, ngoài phải chịu thiệt hại từ thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu còn phải chịu những hệ lụy khác từ việc áp thuế như phải ký quỹ một khoản tiền rất lớn. Điều này một lần nữa gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi vốn – luôn là một vấn đề của doanh nghiệp – phải dùng để ký quỹ. Điều này đã làm tăng mức độ cạnh tranh của những doanh nghiệp không bị áp thuế chống bán phá giá.

     Như vậy, có thể hiểu, các nước xuất khẩu, nhất là các nước đang phát triển, hết sức lên án phương pháp “Quy về 0” và coi đó là một trong những biện pháp điển hình của chống bán phá giá bất công.

     Việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing khi tính các biên độ phá giá đã gặp phải sự phản đối từ các đối tác thương mại của nước này. Họ cho rằng điều này không phù hợp với các quy tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về hệ thống luật chống bán phá giá. Hoa Kỳ đã nhiều lần bị kiện tại các tổ chức thương mại thế giới với lý do nước này sử dụng zeroing trong các cuộc điều tra chống bán phá giá, điển hình là vụ Gỗ xẻ mềm của Canada (DS264), Ổ bi của Nhật Bản (DS322), 21 vụ kiện chống bán phá giá từ EU (DS294), Tôm nước ấm đông lạnh của Ecuador (DS335), Tôm của Thái Lan (DS343), Thép không gỉ của Mexico (DS344)…

  1. Tóm tắt vụ kiện DS404

     Nguyên đơn: Việt Nam

     Bị đơn: Hoa Kỳ

     Các bên thứ ba: Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ

     Bắt đầu tham vấn: 01/02/2010

     Ngày công bố Báo cáo của Ban hội thẩm: 11/7/2011

     Kết quả chủ yếu: Báo cáo của Ban Hội thẩm đã:

 - Ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam về phương pháp "quy về 0" mà Hoa Kỳ áp dụng trong các điều tra rà soát hành chính: Ban Hội thẩm kết luận phương pháp này của Hoa Kỳ (áp dụng trong các rà soát lệnh áp thuế chống bán phá giá đối với tôm Việt Nam) là vi phạm Điều 2.4 và 9.3 Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Kết luận này phù hợp với kết luận trong nhiều tranh chấp trước đây của WTO về vấn đề tương tự;

 - Bác khiếu kiện của Việt Nam về việc Hoa Kỳ hạn chế số lượng bị đơn bắt buộc: Đây là khiếu kiện duy nhất trong vụ việc mà Việt Nam chưa thắng (lý do là khiếu kiện này chỉ mang tính nguyên tắc, trong thực tế điều tra vụ tôm, không có doanh nghiệp nào trong diện liên quan);

 - Ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam về việc Hoa Kỳ áp dụng mức thuế suất không phù hợp cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn: Do Hoa Kỳ đã sử dụng phương pháp "Quy về 0" trong tính toán mức thuế suất được sử dụng để áp cho các bị đơn bắt buộc, mà phương pháp quy về 0 đã bị xác định là vi phạm nên mức thuế suất dựa trên phương pháp này cũng bị xem là vi phạm. Đây là một "chiến thắng gián tiếp" của Việt Nam trong đó dù Ban Hội thẩm chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề của Việt Nam nhưng đưa ra kết luận ủng hộ Việt Nam vì một lý do gián tiếp khác;

 - Ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam về phương pháp tính mức thuế suất toàn quốc của Hoa Kỳ: Ban Hội thẩm kết luận phương pháp này của Hoa Kỳ vi phạm Điều 9.4 Hiệp định về chống bán phá giá. Đây là lần đầu tiên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO có kết luận về vấn đề này, vì vậy đây được xem là một thắng lợi rất đáng kể của Việt Nam, có ý nghĩa với rất nhiều vụ việc sau này, nếu có, ở Hoa Kỳ của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.

     Khuyến nghị của Ban Hội thẩm: Từ các phán quyết về từng vấn đề nêu trên, Ban Hội thẩm kết luận Hoa Kỳ có các hành vi vi phạm các điều khoản của Hiệp định Chống bán phá giá và Hiệp định GATT 1994 và điều này đã gây tổn hại tới quyền lợi của Việt Nam theo các Hiệp định này. Vì vậy, Ban Hội thẩm khuyến nghị Hoa Kỳ điều chỉnh các biện pháp liên quan cho phù hợp các Hiệp định nêu trên (theo Điều 19.1 DSU).

     Báo cáo này đã không bị Hoa Kỳ kháng nghị và được DSB thông qua ngày 1/9/2011.

  1. Một số bình luận và lưu ý đối với Việt Nam
    1. Về vấn đề zeroing

     Trên thực tế, trước đó EU đã kiện Hoa Kỳ ra WTO về vấn đề sử dụng phương pháp zeroing (vụ kiện WT/DS294) và đạt được kết quả khả quan. Cùng với vụ kiện này, nhiều vụ kiện khác về phương pháp zeroing mà Hoa Kỳ đã sử dụng trong các cuộc điều tra do các nước khác khởi xướng (Thái Lan, Ấn Độ, Mexico, Hàn Quốc,…) cũng cho kết quả tương tự.   

     Do đó, kết quả Việt Nam thắng kiện ở nội dung này là có thể dự đoán được vì ban hội thẩm đều cần xem xét kĩ các quyết định đã có trước đó để có thể đưa ra kết quả cuối cùng. Xét đến trường hợp nếu Hoa Kỳ đưa ra kháng cáo vào thời gian tới thì việc lật ngược tình thế cũng là rất khó vì tập quán làm việc của cơ quan phúc thẩm tại WTO là cố gắng duy trì sự ổn định, tiếp nối tương đối trong thành phần và quan điểm của mình giữa các vụ kiện. Trong 15 vụ tranh chấp về vấn đề zeroing thì tính đến thời điểm này, có 08 vụ kiện có kháng cáo và đã có kết luận của cơ quan phúc thẩm thì đều đưa ra một kết luận: Phương pháp zeroing vi phạm Điều 2.4 Hiệp định ADA. Do đó, Việt Nam không cần phải quá lo lắng đến trường hợp có kháng cáo từ Hoa Kỳ.

     Ngoài ra, Việt Nam cũng nên tích cực tham gia các cuộc đàm phán của Vòng Doha và xem xét đến việc để xuất ý kiến sửa đổi Hiệp định ADA theo hướng cấm sử dụng phương pháp zeroing trong mọi trường hợp. Quan điểm này cũng đã nhận được sự ủng hộ của những quốc gia đã từng kiện phương pháp zeroing của Hoa Kỳ như Brazil, Trung Quốc, Ai Cập, Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Mexico, Thái Lan, Ấn Độ. Nếu đề xuất này được chấp nhận thì sẽ mang lại những lợi thế lớn cho hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.

    1. Đối với vấn đề thuế suất toàn quốc (country-wide rate)

     Thực tế áp dụng mức thuế chống bán phá giá của DOC cho thấy, có sự phân biệt giữa các nước có nền kinh tế phi thị trường và các nước được chỉ định là có nền kinh tế thị trường. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường, DOC tuân thủ Hiệp định ADA và tính toán mức thuế suất riêng lẻ cho từng bị đơn bị điều tra và áp một mức thuế suất bình quân gia quyền của các bị đơn này để cho tất cả các bị đơn không bị điều tra riêng lẻ còn lại trong cùng một đợt rà soát. Tuy nhiên, thông lệ của DOC với các nền kinh tế phi thị trường thì lại khác, DOC bắt buộc các doanh nghiệp không được chọn làm bị đơn phải làm đơn xin hưởng thuế suất riêng lẻ và những doanh nghiệp không làm vậy hoặc không thỏa mãn các tiêu chí được hưởng thuế suất riêng lẻ thì phải chịu mức thuế suất toàn quốc. Điều này thể hiện tính định kiến và thường được tính toán dựa trên những dữ kiện bất lợi sẵn có. Việc DOC sử dụng các dữ kiện bất lợi được xem là bình thường, vì DOC đã liên tục đưa ra các quyết định rằng làm như vậy là hợp lý trong trường hợp các bên tham gia trả lời nhưng lại không kê khai, giải thích hết toàn bộ việc nhập khẩu mặt hàng bị điều tra. Thực tiễn áp dụng một mức thuế suất toàn quốc không được Hiệp định ADA khuyến khích là không phù hợp với các nghĩa vụ của WTO. Điều này sẽ làm tăng gánh nặng đối với các bị đơn ở các nền kinh tế phi thị trường và tăng chi phí biện hộ trong các cuộc điều tra ở Mỹ.

     Việc DOC áp dụng mức thuế suất toàn quốc cho Việt Nam và lựa chọn những dữ kiện bất lợi đã trực tiếp bị phản đối trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra. Trong vụ này, DOC đã áp dụng mức thuế 25,76% dựa hoàn toàn vào những dữ kiện bất lợi, trong khi mức thuế suất riêng lẻ cho các bị đơn chỉ là 4,38%. DOC đẫ tuyên bố rằng việc sử dụng mức thuế suất trên là hoàn toàn phù hợp với thông lệ thực tiễn của DOC cũng như pháp luật Hoa Kỳ. DOC đưa ra lý do rằng vì họ không có thông tin hoàn chỉnh đối với một số nhà sản xuất và xuất khẩu nên DOC có thẩm quyền áp dụng toàn bộ các dữ kiện thực tế bất lợi.

     Những phân tích trên cho thấy, việc áp dụng thuế suất toàn quốc của DOC là một hành động bất hợp lý. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề chưa từng bị kiện ra WTO trước đó. Vào thời điểm kiện Hoa Kỳ ra WTO, cơ hội thắng đối với Việt Nam về vấn đề này hoàn toàn không được đánh giá cao như với vấn đề zeroing. Do đó, việc Việt Nam thắng kiện ở vấn đề này là một phán quyết có tính chất bước ngoặt đối với Việt Nam và các nước có nền kinh tế phi thị trường khác.

    1. Đối với việc chọn mẫu (sampling)

     Việc DOC sử dụng điều tra mẫu trong vụ kiện DS404 ở Việt Nam, cả ở điều tra ban đầu và rà soát sau đó, rất đáng lưu ý ở số lượng các nhà sản xuất bị từ chối cho tham gia (xem Bảng 2 – Phụ lục). Trên thực tế, việc lựa chọn số lượng mẫu quá ít như vậy dễ dẫn đến kết quả không chính xác và đem lại nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp bị đơn ở Việt Nam.

     Từ đó, ta có thể thấy, việc chọn mẫu điều tra và rà soát của DOC là bất hợp lý. Tuy nhiên, về nguyên tắc, phương pháp này lại không mâu thuẫn với các quy định của Hiệp định ADA (phương pháp chọn mẫu có quyền áp dụng khi số lượng doanh nghiệp điều tra quá đông và cơ quan có thẩm quyền không có khả năng tiến hành được hết). Do đó, cơ sở pháp lý để bác bỏ phương pháp này chưa đủ chắc chắn. Đây chính là lý do quan trọng mà vì sao Ban hội thẩm không ủng hộ quan điểm này của Việt Nam trong vụ kiện. Theo quy định, Việt Nam vẫn có thể đưa ra kháng cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển đến các thành viên (11/07/2011). Tuy nhiên, do Ban hội thẩm đã bác bỏ thuế suất toàn quốc của Mỹ nên việc áp dụng kháng cáo đối với vấn đề này cũng không đem lại ý nghĩa nhiều về mặt kinh tế.

  1. Một số lợi ích Việt Nam đạt được sau vụ kiện
    1. Lợi ích kinh tế

     Đảm bảo được Hoa Kỳ sẽ không áp dụng các biện pháp bất lợi liên quan đối với hàng hóa Việt Nam, vấn đề kiện chống bán phá giá ở Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam sẽ bớt khắc nghiệt hơn, mức độ thiệt hại sẽ giảm đáng kể. Đồng thời cũng có thể bảo đảm được những lợi ích xuất khẩu khác của Việt Nam.

     Các doanh nghiệp có được mức thuế sơ bộ ngành tôm giảm mạnh, từ mức cao nhất 18% xuống mức thấp nhất hơn 4% đối với bị đơn bắt buộc, từ 16% xuống còn hơn 4% đối với bị đơn không bắt buộc và mức thuế suất chung toàn quốc từ mức trên 90% xuống trên 25%.

    1. Lợi ích chính trị

     Khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện sự chủ động, tự tin, khả năng bình đẳng cũng như các thành viên khác khi sử dụng công cụ giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia.

     Sau vụ tranh chấp, chính phủ sẽ có được bài học kinh nghiệm, có được cái nhìn toàn diện hơn về thương mại quốc tế. Từ đó, chính phủ sẽ nỗ lực hoàn thiện pháp luật, chính sách phát triển thương mại quốc tế, nguồn nhân lực,… để bắt kịp xu hướng thế giới, nâng cao lợi ích kinh tế của quốc gia.

 


Chia sẻ:

Có thể bạn muốn xem